top of page

 ẢO VỌNG và GÔNG CÙM CÙM

Nạn Ấu Dâm trong Công Giáo - 2

 

(tiếp theo)

 

 

Tất cả bản tường trình về các vụ án ấu dâm đã xảy ra cho đến nay đều cho thấy một số lãnh đạo trong Giáo Hội hoặc 1/ có những mưu toan cố tình che dấu hành vi của kẻ phạm tội, hoặc 2/ đã bất cẩn cực kỳ trong quá trình đối ứng với những vụ ấu dâm trong lãnh phận của họ.

 

Một thí dụ vào năm 1990 có người đã lén thâu âm được Phó Hồng Y Quinn ở Cleverland nói rằng ông đã cho cất dấu tất cả bằng chứng có hại cho Giáo Hội khỏi hồ sơ của các tu sĩ đang bị trình báo phạm tội ấu dâm; tuy nhiên nếu văn phòng của Đức Giáo Hoàng cần thì các bằng chứng phản cảm nầy vẫn có thể được đưa ra với điều kiện là chúng không được sử dụng trước tòa án pháp luật nào.

 

Một thí dụ khác về trường hợp cha sở Jim Grennan ở Ái Nhĩ Lan, người bị điều tra về tội vi phạm tình dục với 12 nữ học sinh trong nhóm sinh hoạt của ông ta tại một nhà thờ địa phương. Tập hồ sơ cảnh sát của Grennan bỗng dưng ngày nào đó bị thất lạc mất. Vì thiếu bằng chứng đầy đủ, Grennan đã thoát khỏi bị truy tố. Sau nầy, viên cảnh sát quản lý cuộc điều tra về Grennan khi qua đời đã được Giáo Hội ban tặng một giải thưởng tri ơn vì ông “đã tích cực phục vụ cộng đồng”.

 

Nhiều cuộc điều tra cũng cho thấy một số chức sắc cao cấp trong Giáo Hội đã mua chuộc gia đình nạn nhân bằng tiền để họ không thưa kiện. Vào giữa thập niên 1990, Tổng Giám Mục Desmond Connell (sau nầy trở thành Hồng Y) của Dublin đã cho một tu sĩ dưới quyền ông “mượn” một số tiền lớn để trả cho cha mẹ một bé trai trong đoàn thánh ca địa phương (tên Andrew Madden) để họ không trình báo với cảnh sát là tu sĩ trên đã vi phạm tình dục với con họ. Sau khi sự việc đổ bễ, Hồng Y Connell khai rằng ông không hề cho tu sĩ ấy mượn tiền để mua chuộc gia đình nạn nhân. Ông khẳng định rằng ông “chỉ cho mượn một số tiền, và tu sĩ ấy đã tự ý dùng món tiền nầy để mua chuộc nạn nhân”.

 

Nhìn tổng quát, có vẻ như thái độ chung của nhiều giới chức cao cấp trong Giáo Hội là phải bảo vệ Giáo Hội bằng mọi cách. Chúng ta biết rằng có những thành viên trong một tổ chức sẵn sàng làm nhiều sự việc mà chính họ biết là sai trái chỉ vì họ tin rằng các sự việc sai trái đó cuối cùng sẽ mang lợi ích cho đoàn thể của họ. Hiện tượng “ăn cây nào rào cây nấy” nầy không có gì lạ. Lý luận “cứu cánh biện hộ cho phương tiện” cũng không có gì lạ. Tuy nhiên, mức độ áp dụng các câu tục ngữ trên và quan niệm “trung thành” trong Giáo Hội Công Giáo được xem là đặc biệt ngoại hạng trong trường hợp nầy.

 

Khi nhìn lại nhiệm kỳ dài 27 năm của cựu Giáo Hoàng John Paul II (từ 1978 đến 2005) chúng ta có thể thấy một lịch sử ấu dâm khủng khiếp nhất. Có thể chỉ là vì trong thời kỳ nầy những cuộc tố cáo và điều tra mới bắt đầu bùng nổ lớn ra hơn hẳn trước đó. Trong thời kỳ nầy chỉ tại các quốc gia Âu Châu là Ái Nhĩ Lan, Úc, Đức, Chi-Lê, Alaska, Tân Tây Lan, Thụy Điễn, Haiti, Hòa Lan, Anh Quốc, Ý, Caribbean, Kenya, Thụy Sĩ, Croatia, Pháp, Na-Uy, Nigeria, Nam Phi, Áo, Bĩ và Ba Tây đã có hơn 1700 linh mục bị tố cáo về tội cưỡng dâm trẻ em. Đặc biệt chỉ riêng Ái Nhĩ Lan có 800 tu sĩ đã bị tố cáo liên quan tình dục với 14 ngàn trẻ em. Trong Mỹ Châu, tất cả mỗi tỉnh lỵ của Gia Nã Đại đều có ít nhất một tu sĩ Công Giáo bị tố cáo về ấu dâm. Ở Alaska có một địa phương mà 80% tất cả trẻ em trong làng đã bị cha xứ cùng một cộng sự viên thay nhau cưỡng hiếp, lần lượt, và xảy ra mỗi ngày.

 

Thống kê ở các quốc gia Á Châu cũng không khá gì hơn so với các nước Âu Mỹ. Ngay cả hội Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International), một tổ chức nhân quyền lớn nhất thế giới, lần đầu tiên trong 50 năm đã phải nêu danh Tòa Thánh La Mã trong bản tường trình quốc tế hàng năm và khuyến cáo họ là “đã bỏ lơ trách nhiệm liên quan đến việc bảo vệ nhân quyền trẻ em”.

 

Vào năm 2010, một giám mục dựa trên con số đơn nộp tố cáo và tuyên bố nạn ấu dâm ở Hoa Kỳ đã giảm xuống rõ rệt. Giám mục nầy cho biết trong 2009 trên toàn quốc “chỉ nhận được 15.235 vụ than phiền” (!) Việc nầy lập tức đưa ra câu hỏi “Thế thì thật sự con số trẻ em bị tu sĩ Công Giáo cưỡng bức tình dục là bao nhiêu!?”

 

Bản tường trình của Hội Đồng Điều Tra Murphy năm 2009 ước đoán chỉ nội trong Hoa Kỳ có khoảng 100 ngàn trẻ em là nạn nhân ấu dâm bởi tu sĩ Công Giáo trong 3 thập niên. Nếu ngoại suy ra thì con số trẻ em trên thế giới đã bị tu sĩ Công Giáo cưỡng bức tình dục trong khoảng thời gian nầy lên đến không dưới 300 ngàn.

 

Trong suốt nhiệm kỳ của Giáo Hoàng John Paul II, Tòa Thánh có vẻ như đã làm đủ mọi cách để bảo vệ tu sĩ phạm tội. Tòa Thánh qua nhiều năm đã đứng đơn chống án xin Tòa Thượng Thẩm ở Mỹ được phép không phải đệ trình bộ hồ sơ dầy 12 ngàn trang của họ chứa đựng dữ kiện liên quan đến các tu sĩ bị tố cáo ấu dâm. Đại diện Tòa Thánh, Hồng Y Angelo Sodano, tại thánh lễ Phục Sinh ở Công Trường St Peter vào tháng Tư 2010 tuyên bố rằng “những cáo buột của báo chỉ chỉ là lời nhỏ nhen không đáng để tâm đến”. Tuy nhiên, khi Tòa Thượng Thẩm ra trác lệnh cho phép phóng viên báo chí được khảo nghiệm bộ hồ sơ trên thì người ta thấy có vô số các dữ kiện gớm ghiết về tu sĩ cưỡng dâm trẻ con chứa đựng bên trong. Việc nầy đã phát khởi một phong trào như nước vỡ bờ chỉ trích, phản đối hành vi bao che của Tòa Thánh.

 

Người kế vị John Paul II là cựu Giáo Hoàng Benedict cũng được xem là đã góp phần vào chính sách bao che, dấu giếm tệ nạn ấu dâm trong Công Giáo. Vào năm 1980, Benedict (lúc đó vẫn còn mang tên Joseph Ratzinger) là tổng giám mục của giáo phận Munich ở Đức. Tài liệu vừa được đưa ra ánh sáng vào năm 2010 cho thấy lúc đó ông đồng ý thâu nhận vào Munich một tu sĩ tên H. (dấu tên) đã từng có bị trình báo nhiều lần về tội ấu dâm ở giáo phận Essen. Tuy vậy, tu sĩ H. nầy vẫn được tiếp tục làm việc thân cận với trẻ em trong giáo phận Munich, dưới quyền quản trị của Ratzinger. Tài liệu nầy cũng cho biết tu sĩ H. mặc dù vào năm 1986 đã bị phạt và mang án treo vì tội ấu dâm vẫn được giữ chức vụ của ông ta tổng cộng hơn 30 năm, và tiếp tục vi phạm tình dục với trẻ em nhiều lần trong thời gian nầy.

 

Cũng cần nói thêm là sau khi sự việc nầy bị phanh phui ra vào năm 2010, Giáo Hội đã cử người điều tra để tìm hiểu chi tiết và lý do tại sao Đức Giáo Hoàng đương thời lúc đó của họ đã không có hành động thích hợp vào những năm 1980. Giới phê bình cho rằng đây chỉ là một màn cố chữa cháy buồn cười: Giáo Hội tự đề cử người của họ để điều tra lãnh tụ của họ! Dĩ nhiên là kết quả cuộc điều tra nầy đã không dẫn đến bằng chứng nào cho thấy Benedict có lỗi trong vấn đề trên.

 

Sau khi Benedict bị cáo buột là đã có trách nhiệm, ít nhất là vì bất cẩn, trong vụ tu sĩ H. trước đây, người ta nghĩ rằng với cương vị một Đức Giáo Hoàng thì ông đáng lẽ sẽ nỗ lực sửa đổi, cải thiện hệ thống kiểm soát và quản lý các tu sĩ có tiền tích ấu dâm trong Công Giáo. Tuy vậy, trong suốt thời gian còn lại cho đến khi từ chức năm 2013, Benedict đã không làm một điều gì cả để thay đổi tình trạng nầy. Vài hội bảo vệ trẻ em đặt ra câu hỏi vì thái độ “không làm gì cả” đó nên không biết có bao nhiêu trẻ em khác sau nầy đáng lẽ đã tránh khỏi nhưng đã trở thành nạn nhân ấu dâm của tu sĩ Công Giáo.

 

Ngay cả lá thư của cựu Giáo Hoàng Benedict gởi đến xin lỗi cộng đồng Công Giáo ở Ái Nhĩ Lan vào tháng Ba, 2010 cũng đã làm nhiều nạn nhân phẫn nộ thay vì cảm kích. Người ta cho rằng lá thơ nầy chỉ xin lỗi về vấn đề tu sĩ phạm tội ấu dâm. Tuyệt nhiên không có gì nhắc đến việc Tòa Thánh có trách nhiệm về việc bao che các tu sĩ nầy và cung cấp cơ hội cho họ tiếp tục phạm tội nhiều lần nữa. Trong lá thơ nầy, Benedict cũng không đề cập đến những hồng y, tổng giám mục đã liên quan đến các vụ bao che nổi bật sẽ bị Giáo Hội trừng phạt như thế nào.

 

Năm 2014, chính hội đồng Liên Hiệp Quốc cũng phải lên tiếng chỉ trích Tòa Thánh đã không dập tắt được tệ nạn ấu dâm mà còn dung dưỡng việc bao che. Dưới áp lực từ mọi phía, Tòa Thánh bắt buột phải tỏ cho thế giới thấy họ đang tích cực sửa đổi lỗi lầm của họ.  Đương kim Đức Giáo Hoàng Francis đã thành lập một ban cố vấn gồm 7 nữ và 9 nam trong đó có tu sĩ lẫn thường dân, dưới sự hướng dẫn của Sean O’Malley, một Hồng Y người Mỹ. Ban cố vấn nầy có nhiệm vụ nghiên cứu và góp ý với Đức Giáo Hoàng tìm kiếm phương cách hữu hiệu nhất đối phó với tệ nạn ấu dâm. Đặc biệt là trong ban cố vấn trên có một người Anh và một người Ái Nhĩ Lan đã từng là nạn nhân bởi tu sĩ Công Giáo.

 

Thể theo đề nghị của ban cố vấn trên, vào đầu 2015 Giáo Hoàng Francis đã chuẩn duyệt việc thành lập một hội đồng tòa án chủ yếu nhằm điều tra những giám mục đã cố tình che đậy các vụ án ấu dâm trong giáo phận họ, cụ thể nhất bằng cách thuyên chuyển các tu sĩ phạm tội từ giáo phận nầy sang giáo phận khác thay vì trình báo cảnh sát đúng theo luật pháp đòi hỏi. Hội đồng tòa án nầy có một quy trình thẩm tra quy định rõ ràng từng bước những gì cần phải làm để đảm bảo các giám mục, tổng giám mục đó bị trừng phạt nhanh chóng và thích đáng. Hội đồng tòa án nầy đồng thời cũng dùng quy trình trên để phục hồi thanh danh cho những giám mục vô tội đã bị tố cáo sai lầm. Đây là một lối đi chưa từng thấy trong những chiến dịch bài trừ ấu dâm (nói chung là đều đã thất bại) của Giáo Hội từ trước đến nay.

 

Nhiều người cho đây là một bước tiến đúng hướng của Đức Giáo Hoàng Francis trong việc bắt buộc giới chức cao cấp trong Giáo Hội chịu trách nhiệm về các tu sĩ phạm tội dưới quyền họ. Đây cũng được xem là một bước tiến lạc quan trong việc phòng chống các trường hợp ấu dâm trong tương lai cũng như giúp đỡ quá trình bình phục tâm lý của những nạn nhân. Tuy nhiên cũng có không ít người khác vẫn cho là hành động nầy không giúp gì nhiều vì nó quá ít oi và quá trễ. Nhóm Nạn Nhân bị Cưỡng Bách bởi Tu Sĩ nhận xét: “Đức Giáo Hoàng đáng lẽ cần tước bỏ chức vị của hàng tá giám mục về tội đồng lõa. Tuy vậy cho đến nay vẫn chưa có ai bị mất chức cả!”

 

(Trường hợp Tổng Giám Mục John Nienstedt và Phó Tổng Giám Mục Lee Piche tại Minnesota ở Mỹ đã kể ở Phần 1 là họ đã được Tòa Thánh “cho phép tự nguyện từ chức” chớ không phải bị Tòa Thánh lột chức vì đã phạm lỗi).

Becky Ianni, lãnh đạo của nhóm Nạn Nhân bị Cưỡng Bách bởi Tu Sĩ ở Washington, cho rằng bà không cần thấy sự thành lập của một hội đồng nữa, nhất là hội đồng nầy cũng sẽ gồm có những người hoặc đã đích thân liên can đến ấu dâm hoặc đã hỗ trợ việc bao che ấu dâm trong Giáo Hội. Vấn đề ở đây, theo bà, không phải là Giáo Hội thiếu người được giao cho trách nhiệm điều tra đồng nghiệp của họ. Vấn đề ở đây là Giáo Hội không có người đủ can đảm để thi hành hoàn chỉnh trách nhiệm điều tra các đồng nghiệp của họ. Bà không hề yêu cầu được thấy sự thành lập một quy trình hướng dẫn cách thức điều tra, truy tố và trừng phạt những kẻ phạm tội. Bà chỉ muốn thấy những việc đó thật sự xảy ra mà thôi. Và, theo bà, cho đến nay vẫn chưa có gì xảy ra.

 

Peter Saunders là một trong hai thành viên đã từng là nạn nhân ấu dâm trong ban cố vấn vừa kể trên. Ông nói: “Chừng nào các tu sĩ cao cấp đã bị tố giác ra đến trước mặt hội đồng thì chúng ta mới biết quy trình thẩm tra nầy có ích lợi gì hay không”.

 

Câu nói của bà Becky Ianni ở trên “hội đồng nầy cũng sẽ gồm có những người hoặc đã đích thân liên can đến ấu dâm hoặc đã hỗ trợ việc bao che ấu dâm trong Giáo Hội” có lẽ dựa vào bài tường thuật của một ký giả người Ý tên Eugenio Scalfari của tờ báo Ý La Repubblica ngày 14 tháng Bảy 2014. Ký giả nầy cho biết vào ngày Chúa Nhật trước đó, ông đã được gặp mặt và đàm thoại riêng với Giáo Hoàng Francis. Cuộc đàm thoại nầy vì không phải là một buổi phỏng vấn chính thức nên ông đã không dùng máy ghi âm. Ông kể lại Giáo Hoàng Francis khi nói đến vấn đề ấu dâm của tu sĩ Công Giáo đã so sánh tệ nạn nầy “giống như một bệnh cùi hũi trong Giáo Hội”. Giáo Hoàng cũng tuyên bố: “Chúng ta có khoảng 2% là những kẻ ấu dâm bao gồm những linh mục, giám mục và hồng y. Một số khác, lớn hơn nhiều, tuy biết về điều nầy nhưng vẫn không lên tiếng gì cả”, và “Đây là một điều không tha thứ được. Giống như Giê-su, tôi sẽ lấy gậy đập đầu các tu sĩ ấu dâm nầy…”

 

Các báo chí thế giới xem đây là lời thú nhận của Giáo Hoàng Francis về 2 điều. Thứ nhất, trong Giáo Hội có khoảng 2% tu sĩ có tính ấu dâm (con số nầy có vẻ phù hợp với các tỉ lệ của những cuộc điều tra trước đây – như đã nói ở trên). Điều nầy có nghĩa là khoảng 8 ngàn tu sĩ có khuyn hướng ấu dâm trong số tổng cộng 410 ngàn tu sĩ của Công Giáo. Thứ hai, trong số 2% nầy ngoài các linh mục, giám mục còn là cả một số hồng y nữa (“hồng y” là phụ tá thân cận của Giáo Hoàng làm việc trong Tòa Thánh). Tuy nhiên ngay sau khi bài báo trên được đăng ra, Tòa Thánh đã vội vã cãi chính rằng “bài tường thuật trên báo La Repubblica tuy diễn tả được nội dung tổng quát của cuộc đàm thoại nhưng có vài chi tiết không chính xác. Đáng kể nhất là Đức Giáo Hoàng không hề nói là 2% tổng số tu sĩ Công Giáo có khuynh hướng ấu dâm mà thật ra chỉ nhắc đến 2% như một con số thường được các nhà bình luận ước lượng; và Đức Giáo Hoàng không hề nói là trong số đó có bao gồm cả những hồng y”.

 

Một sự kiện khác không mấy gì có lợi cho Giáo Hoàng Francis là việc người giữ chức Trưởng Tài Vụ hiện tại của Tòa Thánh lại cũng đã bị điều tra về việc bao che một tu sĩ phạm tội ấu dâm dưới quyền ông ấy. Hồng Y George Pell, một tổng giám mục người Úc đã được Giáo Hoàng Francis tuyển chọn đến Vatican làm Trưởng Tài Vụ cho Giáo Hội vào tháng Hai năm 2014. Chỉ đến tháng Ba cùng năm, George Pell bị Hội Đồng Thẩm Tra Hoàng Gia Bài Trừ Ấu Dâm của Úc Châu gọi ra chất vấn về một vụ án ấu dâm xảy ra vào năm 1993 ở Ballarat (một thành phố nhỏ ở miền đông nam nước Úc).

 

Cuộc điều tra nầy thật ra chú trọng vào các vụ ấu dâm đã xảy ra trong vài thập niên bắt đầu từ 1970 tại Ballarat. Tài liệu cho thấy rằng rất có thể tất cả trẻ em trai từ 10 đến 16 tuổi tại trường tiểu học St Alipius ở thị trấn thôn quê nầy đều đã bị cưỡng dâm bởi các linh mục làm việc ở đó. Việc nầy có ảnh hưởng sâu đậm lâu dài đến rất nhiều gia đình trong vùng. Một người đã từng là nạn nhân đưa ra một tấm ảnh lớp học cũ của ông ấy có 33 học sinh, trong đó cho đến nay đã có 12 người tự tử chết. Một người khác, cũng đã từng là nạn nhân, nhắc đến Viện Mồ Côi St Joseph’s trong thị trấn nơi mà ông đã bị cưỡng hiếp liên tục từ lúc 5 tuổi. Ông kể lại lúc đó ông được bảo rằng: “Cha chỉ muốn thanh tẩy cho con mà thôi”.

 

Trong vụ án nầy, tổng giám mục George Pell không phải là nghi phạm trực tiếp. Tu sĩ phạm tội tên Gerald Ridsdale (là một trong những linh mục làm việc ở Ballarat lúc đó và hiện đang ở tù vì vụ nầy) là chú ruột của nạn nhân (David Ridsdale, chỉ mới 11 tuổi lúc bị cưỡng dâm). Gia đình nạn nhân khai rằng khi họ than phiền với tổng giám mục George Pell (lúc đó thân thiết với họ như là một người bạn gia đình) thì ông hỏi họ muốn được trả bao nhiêu tiền để đổi lấy sự im lặng của họ. Họ cũng khai rằng George Pell lúc đó đã giải quyết vấn đề bằng cách thuyên chuyển tu sĩ phạm tội ấy từ giáo xứ nầy đến giáo xứ khác.

 

Trong buổi thẩm vấn vào tháng Ba 2014, Hồng Y Pell đã phủ nhận tất cả cáo buộc trên. Ông khai rằng tuy ông rất thông hiểu nỗi đau đớn của nạn nhân và gia đình nhưng ông không hề cố mua chuộc ai cả, cũng không hề liên quan gì đến việc linh mục Ridsdale được thuyên chuyển từ nơi nầy đến nơi khác. Ngay khi bài tiểu luận nầy được soạn thảo (tháng Chín 2015), cuộc điều tra trên vẫn còn đang tiếp diễn. Nhóm Nạn Nhân bị Cưỡng Bách bởi Tu Sĩ ở Úc kêu gọi Hồng Y Pell tình nguyện trở về Úc một lần nữa để ra trước Hội Đồng Thẩm Tra cung cấp thêm dữ kiện cần thiết nhưng đến nay Hồng Y Pell đã từ chối làm điều nầy.

 

Một chi tiết gần như lý thú là sáng ngày linh mục Gerald Ridsdale ra hầu tòa vào năm 1993 về tội ấu dâm thì người ta thấy có giám mục George Pell đi theo kèm kế bên để ủng hộ tinh thần. Trong khi đó bên phía nạn nhân thì không có ai đại diện Giáo Hội đến để hỗ trợ cả. Nếu George Pell thật sự “thông hiểu nỗi đau đớn của nạn nhân và gia đình” như ông nói thì tại sao hôm đó ông lựa chọn đi theo hỗ trợ kẻ tội phạm thay vì đi theo hỗ trợ gia đình nạn nhân? Nhiều người cho rằng chỉ nội việc nầy thôi cũng cho thấy rõ Giáo Hội đứng bên phe nào giữa tu sĩ phạm tội và đứa bé nạn nhân.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Những sự kiện lịch sử vừa được trình bày ở đây đã làm giới phê bình kết luận rằng đàng sau những giáo đường trang nghiêm và những chương trình phước thiện bác ái của Công Giáo chỉ là một thế giới quan liêu, đẳng cấp, phe phái và lắm lúc đầy gian trá của Tòa Thánh. Như đã nói, cấu trúc từ xưa đến nay của Tòa Thánh không khác mấy với các tổ chức phong kiến của vua chúa thời xưa. Những người làm việc trong môi trường nầy nếu muốn tồn tại sẽ phải hành sử tương tự, bằng không họ sẽ bị nghiền nát bởi guồng máy khổng lồ và phức tạp của Giáo Hội.

 

Người ta cũng dùng thí dụ nầy để cho thấy Tòa Thánh La Mã không phải là một cơ sở hoàn toàn thánh thiện, trong sạch và quang minh chính đại như chúng ta thường nghĩ. Và tu sĩ Công Giáo không phải là những người lúc nào cũng cao cả, đức hạnh và đáng tín nhiệm hơn mọi người khác.

 

(Thật ra thì kết luận trên có thể áp dụng cho bất cứ tổ chức tôn giáo và bất cứ dạng tu sĩ nào. Tuy nhiên câu tục ngữ “chiếc áo không làm nên thầy tu” mặc dù dễ hiểu nhưng cũng rất khó nhớ cho nhiều người để áp dụng khi giao dịch trong môi trường tôn giáo.)

 

 

 

​      Da Màu: http://damau.org/archives/39563

Thiên Chúa Giáo

Hồi Giáo

bottom of page