Nguyễn Nhân Trí -
- Tôn Giáo
- Sự Chết và Con Người
- Thuyết Tiến Hóa
ẢO VỌNG và GÔNG CÙM CÙM
Đầu Thai và Luân Hồi
Có người hỏi tôi có tin chuyện “đầu thai” và “luân hồi” hay không. Tôi nghĩ để trả lời câu hỏi nầy, chúng ta có thể xét đến những bằng chứng về đầu thai và luân hồi.
Đầu thai là một khái niệm cho rằng sau khi người ta chết thì thể xác bị tan hủy nhưng phần hồn của họ sẽ tái sinh vào một cơ thể mới. Theo tín ngưỡng Phật Giáo, tùy duyên nghiệp của mỗi người, cơ thể mới nầy có thể là một bào thai của loài người hay một loài thú nào khác.
Đây là một khái niệm đã có mặt trong nhiều tôn giáo từ ngàn xưa, ngoài Phật Giáo và Ấn Độ Giáo. Từ Ai Cập cổ đại cho đến Tây Phương hiện đại cũng có những hệ thống tín ngưỡng với giáo điều, truyền thuyết trực tiếp hay gián tiếp đề cập đến khái niệm tái sinh.
Khái niệm về luân hồi gắn liền với khái niệm đầu thai. Luân hồi nói về sự tái diễn vô tận của đầu thai; có nghĩa là sự luân chuyển sinh ra, sống, rồi chết đi để rồi tái sinh trở lại, sống, rồi chết đi nữa vòng quanh mãi không bao giờ dứt. Theo tín ngưỡng Phật Giáo, một người vướng vào vòng luân hồi vì họ còn “nặng nghiệp”. Một ngày nào đó khi nghiệp nầy đã dứt thì họ sẽ được giải thoát khỏi vòng sinh tử và vào Niết Bàn. Có thể nói luân hồi là một trường hợp đặc biệt của đầu thai. Do đó trong bài nầy tôi chỉ chú trọng về khái niệm “đầu thai”.
Chúng ta thường nghe nhiều chuyện kể, đọc nhiều sách vở tài liệu nói đến “bằng chứng về đầu thai”. Tác giả của những câu chuyện và sách vở tài liệu nầy đưa ra những trường hợp đã xảy ra mà theo họ thì “rõ ràng cho thấy đầu thai là một hiện tượng có thật”.
Nổi bật nhất có lẽ là trường hợp của những người nhớ được tiền kiếp của họ, nhiều khi rõ ràng và chi tiết đến độ có thể xác định được tiền thân của họ lẫn gia đình, quê quán, sinh hoạt đời sống mà họ đã từng trải nghiệm ở kiếp trước.
Những mẩu chuyện tiêu biểu nhất về “nhớ lại tiền kiếp” có dạng như sau: một đứa bé tên A sinh ra ở địa phương X một hôm nào đó bắt đầu nằng nặc cho rằng mình là một đứa bé khác tên B đã từng sống, và đã chết, ở một địa phương Y. Sau khi điều tra, người ta tìm ra một gia đình ở địa phương Y từng có một đứa bé tên B đã chết. Và nhiều chi tiết về đời sống, nguyên nhân chết, thân nhân cũng như gia đình của đứa bé B đều đúng như đứa bé A đã diễn tả.
Tôi không có giải thích khẳng định nào cho các câu chuyện dạng trên. Tôi chỉ có thể nói là tôi chưa có dịp đọc qua bài tường trình nào có đủ sức thuyết phục tôi hoàn toàn.
Đó là vì, trước hết, tôi cho rằng “đầu thai” không chỉ là nguyên do duy nhất có thể dùng để giải thích các câu chuyện trên. Thí dụ như nếu nhìn kỹ lại trường hợp 2 đứa bé A và B ở trên thì chúng ta thấy ở đây dường như có một sự “truyền tay” về kiến thức từ B đến A: Đứa bé A vì lý do gì đó mà sở hữu được những kiến thức của đứa bé B đã chết từ lâu rồi. Do đó có vẻ như kiến thức có thể truyền phát được qua không gian, và thời gian, giữa cá nhân nầy đến cá nhân khác. Đây là một nguyên nhân khả dĩ không liên quan gì đến sự tái sinh. Nếu bạn đọc tin vào hiện tượng được gọi là “thần giao cách cảm” chẳng hạn thì giả thuyết vừa đưa ra không có gì đáng ngạc nhiên lắm. Trong “thần giao cách cảm”, kiến thức truyền phát qua không gian hầu như lập tức giữa hai cá nhân khác nhau. Trong “đầu thai”, kiến thức truyền phát qua không gian lẫn thời gian. Trên phương diện lý luận, giả thuyết “kiến thức truyền phát” không hề kém giá trị gì cả so với quan điểm “đầu thai” (cũng chỉ là một giả thuyết).
Kế đó, và quan trọng nhất, tôi đặt câu hỏi về mức độ chính xác của những dữ kiện tường trình (nghĩa là vì lý do nào đó chúng có bị thêm thắt, thêu dệt hay không). Theo tôi thì có rất nhiều lý do để điều nầy có thể xảy ra (và vì vậy có xác suất rất cao). Nhiều câu chuyện ban đầu nghe có vẻ rất đáng giá trị, tuy nhiên sau khi nhìn kỹ vào thì có nhiều chi tiết cho thấy sự kém toàn hảo của những gì gọi là “bằng chứng”. Ngay cả những bài tường trình của các tác giả được xem là “khoa học” nhất cũng không ngoại lệ.
Lấy thí dụ về Giáo Sư Ian Stevenson (1918-2007), một nhà tâm thần học tài giỏi đã từng giữ chức vụ Trưởng Khoa Tâm Thần của Đại Học Virginia từ khi mới 38 tuổi. Tuy vậy, sở thích chính trong đời ông là nghiên cứu về sự sống bên ngoài sự chết. Đến năm 1968, ông có cơ hội đầu tư hoàn toàn thời giờ vào việc nghiên cứu về lãnh vực siêu nhiên nầy. Ông đã dành hết tâm trí trong 40 năm sau đó thu thập dữ kiện của hàng ngàn trường hợp liên quan đến hiện tượng đầu thai. Bất cứ tin đồn hay tài liệu báo chí nào trên thế giới nói về một trường hợp có vẻ như liên quan đến sự tái sinh đều được Steveson điều tra. Có thể nói, Stevenson là một trong các nghiên cứu gia hàng đầu về lãnh vực nầy.
Một tác phẩm nghiên cứu nổi tiếng của Ian Stevenson là quyển “Những ĐứaTrẻ Nhớ Được Kiếp Trước của Chúng – Một Câu Hỏi về Đầu Thai” (“Children Who Remember Previous Lives – A Question of Reincarnation”) ấn hành năm 2000. Trong quyển sách nầy, Stevenson nói về 14 trường hợp được xem là chứng cớ đáng kể nhất cho hiện tượng đầu thai.
Cũng cần nói là các câu chuyện trong quyển sách nầy, cũng như hầu hết các câu chuyện khác mà ông đã có dịp nghiên cứu, chứa đầy đủ tất cả những chi tiết ông có thể thu lượm được. Đây là một đặc điểm của Stevenson, ông là một nghiên cứu gia rất tận tụy, chu đáo và chân thật. Ông ghi chú lại mọi thứ và không loại bỏ bất cứ chi tiết nào, ngay cả những chi tiết có thể không có lợi cho mục đích nghiên cứu của ông. Nhờ vậy, sau khi xem xét kỹ về phương cách điều hành quá trình nghiên cứu và phân tích tài liệu của Stevenson, một số bình luận gia nhận thấy có nhiều vấn đề cần được lưu ý.
Nhận xét đầu tiên đập vào mắt các bình luận gia là cách lựa chọn đối tượng nghiên cứu của ông. Để bảo đảm sự khách quan, đáng lẽ ra ông phải bắt đầu bằng cách phỏng vấn nhiều đứa trẻ khác nhau để dần dần tìm ra những đứa có vẻ như đã từng được đầu thai để làm đối tượng nghiên cứu. Và đáng lẽ ông rồi phải tiếp tục theo dõi và khảo sát đời sống trước đó và sau nầy của những đối tượng để so sánh những gì chúng kể và những gì thật sự xảy ra. Tuy nhiên, thay vì vậy, theo chính lời kể của ông, Stevenson đã chỉ tìm đến những đứa trẻ sau khi chúng đã được nhiều người biết đến rồi về những mẩu chuyện “đầu thai” của chúng. Có nghĩa là, các đứa bé đối tượng nghiên cứu của ông đã được thân nhân của chúng xác định rằng chúng là bằng chứng của sự đầu thai. Và đó có nghĩa rằng các đứa bé nầy đã có sẵn định kiến về vấn đề đầu thai, cũng như mọi người khác sống chung quanh chúng, và cũng như chính bản thân ông. Nói cách khác, rất có thể mọi người liên quan đến các đối tượng nghiên cứu (kể cả người điều hành cuộc nghiên cứu là ông) đều đã có sẵn những quan điểm và ý tưởng thuận lợi cho việc dẫn đến một kết quả xác định sự hiện hữu của hiện tượng đầu thai.
Hơn nữa, cuộc nghiên cứu của Stevenson không bao gồm các quá trình theo dõi, quan sát đời sống của các đối tượng và những nhân vật liên quan đến chúng. Nói chung, phạm vi nghiên cứu của ông chỉ bao gồm những cuộc phỏng vấn để thu thập dữ kiện. Nói cách khác, những nhận xét và kết luận của ông chỉ dựa vào những câu chuyện kể lại từ những người khác. Và như đã nói, những người nầy rất có thể đã có sẵn những định kiến ủng hộ quan niệm đầu thai.
Các sự kiện trên lập tức tạo ra một môi trường rất chủ quan cho toàn thể cuộc nghiên cứu của Stevenson. Điều nầy, các bình luận gia cho rằng, có thể đưa đến những kết quả hoàn toàn thiên vị.
Tuy vậy, tạm gạt bỏ hai vấn đề trên qua một bên, chúng ta hãy nhìn tiếp đến 14 câu chuyện ông sử dụng cho quyển sách trên. Trong 14 câu chuyện nầy có:
-
3 câu chuyện được kết luận là “không đủ dữ liệu để có thể xác định được nhân vật trong tiền kiếp của đối tượng là ai”.
-
9 câu chuyện được kết luận là “có đủ dữ liệu để xác định được nhân vật tiền kiếp”. Tuy nhiên các nhân vật trong tiền kiếp đó đã (hoặc rất có thể đã) có những liên lạc trực tiếp hay gián tiếp với gia đình của các đứa bé đối tượng.
-
2 câu chuyện được kết luận là “có đủ dữ liệu để xác định được nhân vật tiền kiếp”, và các nhân vật trong tiền kiếp không hề có liên lạc gì với gia đình đối tượng.
Theo các bình luận gia, 3 trường hợp “không đủ dữ liệu để xác định nhân vật tiền kiếp” không đáng được kể là bằng chứng. Những đứa trẻ nầy có thể đã để trí tưởng tượng của chúng phối hợp với những gì chúng đã vô tình nghe thấy chung quanh và tạo dựng ra những câu chuyện của chúng. Hoặc có thể vì lý do gì khác không liên quan đến việc đầu thai. Không có gì để kiểm chứng được.
Nên nhớ rằng trí nhớ con người làm việc một cách rất đặc biệt. Mỗi lần trí óc chúng ta ghi nhớ một sự kiện gì thì toàn thể sự kiện đó không được lưu trữ lại nguyên vẹn từ đầu đến cuối. Thay vì vậy, mỗi sự kiện được “bẻ gẫy” ra thành nhiều chi tiết nhỏ rồi mỗi chi tiết nầy được “ghi chép” lại dưới hình thức hóa chất và điện từ trong các tế bào não. Rồi mỗi khi chúng ta muốn nhớ lại sự kiện đó thì các chi tiết nhỏ bé trên (chứa đựng trong tri thức, và trong tiềm thức) sẽ được “đem ra” để ráp ghép lại thành một câu chuyện diễn tả sự kiện ban đầu. Nhiều khi quá trình “ráp ghép lại” nầy không hoàn hảo. Vì vậy có những khi chúng ta không nhớ lại một cách chính xác mọi chi tiết. Có nhiều khi câu chuyện kể lại của chúng ta được ráp ghép lại bởi chi tiết của vài sự kiện khác nhau. Cũng có những khi chúng ta không nhớ rõ nguồn gốc của một số trí nhớ. Do đó có những sự kiện, những câu chuyện chúng ta tưởng là đã nhớ lại rất rõ ràng nhưng đã bị lệch lạc đi ít nhiều mà chúng ta không hay biết.
Về 9 trường hợp “có đủ dữ liệu xác định nhân vật tiền kiếp - nhưng đã có sự liên lạc với gia đình đối tượng” thì cũng không có gì bảo đảm các đối tượng đã không bằng cách nào đó vô tình thu lượm được các chi tiết mật thiết nhất của các nhân vật tiền kiếp qua trung gian của gia đình chúng. Chẳng hạn như khi xét đến 4 câu chuyện sau đây trong 9 trường nầy nầy, các bình luận gia nhận thấy các dấu hiệu rất đáng nghi ngờ về giá trị của chúng.
1. Câu chuyện của Corliss Chotkin Jr: Một ông lão sống trong một cộng đồng tin vào hiện tượng đầu thai. Ông nói với cháu gái của ông rằng sau khi chết ông sẽ đầu thai thành con trai của cô ấy. Và quả thật sau khi ông chết, cô sinh ra một đứa con trai. Cô cho rằng nó là hiện thân của chú cô vì nó có những vết bớt trên người trùng hợp với những vết sẹo mà chú cô đã có. Tuy nhiên khi Stevenson tìm đến phỏng vấn (lúc đứa bé đã 6, 7 tuổi) thì cô ấy cho biết là những vết bớt trên thân thể đứa bé đã “tự dời chỗ” đi các nơi khác! Có nghĩa là các vết bớt trên người đứa bé bấy giờ không còn trùng hợp với những vết sẹo của người chú nữa. Các bình luận gia than phiền về việc Stevenson quá dễ tin khi ông chấp nhận lời người mẹ rằng các vết bớt của đứa bé đã “tự dời chỗ đi”.
2. Câu chuyện của Gillian và Jennifer Pollock: Hai đứa bé gái 6 và 7 tuổi bị tai nạn cùng chết một lúc. Người cha là một người rất tin vào đầu thai. Ông cho rằng hai đứa con gái đó sẽ đầu thai trở lại thành những đứa con sau nầy của ông. Vợ ông sau đó sanh được hai đứa con gái song sinh. Trong khoảng thời gian các đứa bé song sinh bắt đầu 2 tuổi cho đến lúc 4 tuổi, chúng thường nói đến những chi tiết rất chính xác về 2 người chị đã qua đời của chúng. Các bình luận gia cho rằng vì lý do gì đó Stevenson đã không nhận thấy rằng rất có thể chỉ vì người cha rất tin vào đầu thai, và vì sự đau đớn đã mất 2 đứa con ban đầu, nên ông (cũng như gia đình) đã vô tình thường xuyên nhắc đến 2 đứa con đã qua đời trước mặt 2 đứa bé song sinh. Vì thế, rất có thể khi bắt đầu biết nói thì tiềm thức của chúng đã chứa đựng sẵn nhiều chi tiết chính xác về 2 người chị đã chết.
3. Câu chuyện của Michael Wright: Một cô gái trẻ sắp cưới người yêu của mình nhưng anh chàng bị tai nạn chết thình lình. Cô gái rồi lập gia đình với người khác và sinh ra một đứa bé trai mà cô cho là hiện thân của người yêu cũ đã qua đời của cô. Cô kể với Stevenson cô đã nằm mơ thấy anh ta đúng một năm sau ngày anh chết. Stevenson tin rằng đây là một “dấu hiệu báo trước” anh ta sẽ trở lại. Cô gái, và cả gia đình cô, rất tin vào hiện tượng đầu thai. Các bình luận gia cho rằng rất có thể đây chỉ là một hiện tượng tâm lý chớ không liên quan gì đến tâm linh: Vì thương tiếc (dù chỉ trong tiềm thức) người yêu cũ và vì niềm tin mạnh mẽ về đầu thai nên cô gái đã có những ấn tượng vừa kể.
4. Câu chuyện của Hanumant Saxena: Một người đàn bà Ấn Độ nằm mơ thấy một người đàn ông cùng làng vừa bị bắn chết hiện về nói rằng “Tôi sẽ đến với cô”. Bà nầy sinh ra một đứa bé trai có một vết bớt trên mình ngay đúng chỗ người đàn ông bị bắn. Bà và mọi người trong làng cho rằng đứa bé là hiện thân của người đàn ông đó. Khi đứa trẻ bắt đầu biết nói, nó thường nhắc đến những câu chuyện về cuộc đời của người đàn ông được xem là tiền thân của nó. Các bình luận gia cho rằng rất có thể trong suốt thời gian chưa biết nói, đứa bé đã nhiều lần nghe người ta bàn luận trước mặt nó về mối liên hệ tiền/hậu kiếp họ nghĩ giữa nó và người đàn ông đã chết. Do đó, tương tự như câu chuyện thứ 2 vừa kể trên, khi đứa bé biết nói thì trong đầu nó đã có sẵn nhiều chi tiết chính xác về cuộc đời của người đàn ông trên. Trong câu chuyện nầy, đặc biệt là ngay cả Stevenson cũng đồng ý phần nào với nhận xét trên của các bình luận gia. Do đó Stevenson bị chỉ trích rằng nếu chính ông cũng đã nhận xét như vậy thì câu chuyện nầy hoàn toàn không đáng được xếp vào hàng “chứng cớ” (mặc dù chỉ là khả dĩ) của hiện tượng đầu thai.
Nếu 4 câu chuyện vừa kể trên đã làm các bình luận gia đặt câu hỏi về tính dễ tin của Stevenson thì 2 trường hợp đáng tin nhất của ông (vì “có đủ dữ liệu xác định được nhân vật tiền kiếp – và không có liên lạc giữa nhân vật tiền kiếp và gia đình đối tượng”) cũng xem ra không có gì tuyệt đối hay chắc chắn lắm.
Trước hết, tôi xin tóm lược 2 câu chuyện đó.
Câu chuyện thứ nhất xảy ra ở Ấn Độ về một đứa bé tên Gopal Gupta lúc 2 tuổi bắt đầu nhớ lại tiền kiếp của nó ở một ngôi làng gần bên. Một điều lạ lùng là đứa bé nầy từ nhỏ đã có cung cách của một người thuộc giai cấp xã hội cao hơn giai cấp gia đình hiện tại của nó. Và sau nầy khi lớn lên nó cũng kể ra nhiều chi tiết chính xác về gia đình tiền kiếp của nó.
Câu chuyện thứ hai xảy ra ở Lebanon về một đứa bé trai tên Suleyman Andary nằm mơ thấy về tiền kiếp của mình. Đứa bé nầy cho rằng mình đã từng là một người đàn ông đã có con và kể chuyện về các đứa con nầy. Có nhiều chi tiết dẫn đến việc xác định được người đàn ông đó là ai. Tuy nhiên khi nó được đưa đến ngôi làng nó đã từng sống thì nó lại đột nhiên trở thành nhúc nhát e dè và đặc biệt là không nhìn ra được mặt những đứa con và thân nhân trong tiền kiếp của nó.
Sau khi đọc kỹ phần tường trình của 2 câu chuyện trên, người ta nhận thấy một vài điểm cần chú ý sau đây.
-
Thứ nhất, các đứa bé và gia đình cũng như thân nhân chúng sống trong những cộng đồng có niềm tin truyền thống về đầu thai. (Đây cũng là một đặc điểm của hầu như tất cả mọi câu chuyện về đầu thai của Stevenson). Đối với họ, đầu thai là một sự kiện có thật, đương nhiên và hiển nhiên. Điều nầy chắc chắn có ảnh hưởng đến những quan sát, cảm nghĩ và suy luận của họ trong vấn đề nầy.
-
Thứ hai, lần đầu tiên Stevenson tìm đến gặp các đứa bé là lúc chúng đã 13 tuổi trong câu chuyện thứ nhất và 14 tuổi trong câu chuyện thứ hai. Có nghĩa là trong câu chuyện thứ nhất đã 11 năm trôi qua, và trong câu chuyện thứ hai đã khoảng 6 hay 7 năm sau khi các đứa bé nhớ lại tiền kiếp của chúng. Trong suốt thời gian đó, trước khi Stevenson đến phỏng vấn, chúng đã liên tục bị ảnh hưởng bởi những nhận xét và định kiến của những người lớn chung quanh về vấn đề “đầu thai” của chúng. Do đó những gì hai đứa trẻ kể lại trong cuộc phỏng vấn với Stevenson rất có thể chỉ là những nhận xét và quan điểm chủ quan của những người lớn chung quanh chúng.
-
Thứ ba, cộng đồng bản xứ Lebanon của Suleyman Andary (đứa bé trong câu chuyện thứ hai) tin rằng sau khi một người chết đi thì họ sẽ đầu thai lập tức. Tuy nhiên theo chi tiết thu thập được thì người tiền thân của Suleyman đã chết 12 năm trước khi nó được “tái sinh”. Có nghĩa là có một khoảng trống 12 năm. Nếu theo niềm tín ngưỡng địa phương thì Suleyman đã phải có tái sinh một lần rồi và chết đi trước khi nó được tái sinh một lần nữa vào kiếp sống hiện tại. Khi được hỏi về việc nầy thì Suleyman tuy xác nhận là đã có tái sinh một lần nhưng không nhớ chi tiết gì về lần tái sinh đó cả. Đây là một điều bất thường khi một đứa bé không nhớ gì về tiền kiếp gần đây nhất mà lại nhớ rõ về tiền kiếp trước đó nữa của nó. Việc nầy làm các bình luận gia nghi ngờ rằng vì lý do gì đó (không liên quan đến tái sinh) cậu bé Suleyman đã thu thập được dữ liệu về người đàn ông đã chết rồi tự nghĩ rằng mình là hậu thân của người đó; sau đó cậu bé đã chế đặt ra lần tái sinh “trung gian” để làm câu chuyện của cậu phù hợp với tín ngưỡng địa phương.
Các điểm trên cho thấy ngay cả 2 trường hợp có vẻ đáng tin nhất của Stevenson vẫn có những chi tiết làm giảm giá trị của chúng rất nhiều.
Một nhận xét khác nữa là 13 trong số 14 câu chuyện trong quyển sách nầy cho thấy các đứa bé đối tượng trong cuộc thí nghiệm của Stevenson đều cư ngụ trong cùng một cộng đồng với những tiền thân của chúng. Có nghĩa là một đứa bé Ấn Độ nhớ lại tiền thân của nó cũng là một người Ấn Độ, một đứa bé Âu Châu nhớ lại tiền thân của nó cũng là một người Âu Châu, v.v. Và đáng kể hơn nữa là các đứa bé và người tiền thân của chúng sống ở những địa phương cách nhau không xa lắm. Điều nầy tuy tự nó không phủ nhận câu chuyện đầu thai nhưng cũng không khỏi làm các bình luận gia tự hỏi “Trong thế giới huyền bí, tại sao linh hồn có vẻ như chỉ có thể di chuyển những khoảng cách khá ngắn ngủi và quay trở về tái sinh trong cùng cộng đồng?” Và đây là các cộng đồng có niềm tin truyền thống về đầu thai. Phải chăng đây là dấu hiệu cho thấy rất có thể có những lý do gì khác (ngoài lý do đầu thai) đàng sau các câu chuyện trên?
Nói cách khác, những phân tích ở trên cho thấy sau 40 năm nghiên cứu thì Giáo Sư tâm thần học Ian Stevenson với những câu chuyện “đáng kể” nhất của ông vẫn chưa đem lại chứng cớ nào có giá trị thuyết phục tuyệt đối về đầu thai. Như đã nói, Stevenson là một trong những nghiên cứu gia hàng đầu về vấn đề đầu thai, tái sinh. Các bài tường trình của những nghiên cứu gia khác tôi đã đọc qua cũng nằm trong trạng thái tương tự: những cái gọi là bằng chứng đưa ra đều đầy lỗ hổng.
Ngoài ra khái niệm đầu thai cũng thường được dùng để giải thích hiện tượng thần đồng. Người ta cho rằng đây là trường hợp mà những tài năng thường cần phải có cả đời người khổ luyện mới thành đạt đã được tích tụ và chuyển theo từ một kiếp trước sang qua đến các đứa bé thần đồng ở kiếp nầy. Do đó theo họ, hiện tượng thần đồng “chứng minh” là đầu thai có thật sự xảy ra.
Theo tôi, khoa học ngày nay vẫn chưa hiểu rõ tận cùng về cách hoạt động của trí óc, và tâm thức, con người. Trí óc và tâm thức chúng ta, nhất là trong các trường hợp đặc biệt, có thể có những khả năng học hỏi, thu nhận và phát triển với tầm mức và tốc độ siêu phàm. Hiện tượng thần đồng rất có thể chỉ là một vài trường hợp nầy và không liên quan gì đến sự tái sinh cả.
Có người cũng dùng những dữ kiện trùng hợp có vẻ kỳ lạ giữa hai nhân vật sống ở hai thời đại khác nhau để cho rằng người nầy là tái sinh của người kia. Thí dụ như trong một bài viết mang đề tựa “Lý Giải Khoa Học về sự Đầu Thai Chuyển Kiếp”, tác giả đã đưa ra so sánh những trùng lặp “thú vị” giữa Napoleon và Hitler như sau: “Napoléon sinh năm 1760, Hitler sinh năm 1889 chênh nhau 129 năm. Đặc biệt, rất nhiều sự kiện trùng và chênh nhau đúng 129 năm như: Napoléon nắm quyền năm 1804, Hitler năm 1933 chênh 129 năm. Napoléon chiếm Viên (Áo) năm 1809, Hitler năm 1938 chênh 129 năm. Napoléon chiếm Nga năm 1912, Hitler chiếm Nga 1941; Napoléon thua Nga 1816, Hitler thua Liên Xô 1945. Napoléon và Hitler đều nắm quyền binh năm 44 tuổi, đánh chiếm Vienna năm 49 tuổi, đánh chiếm Nga năm 52 tuổi và đều vỡ mộng bá chủ ở tuổi 56...” với hàm ý Hitler là hiện thân hậu kiếp của Napoleon.
Tôi chưa hề kiểm chứng các dữ kiện trên. Nhưng theo tôi, nếu có những sự trùng hợp có vẻ kỳ lạ trên đi nữa thì chúng chỉ là những ngẫu nhiên hiếm có mà thôi. Chúng không bất khả dĩ đến nỗi chỉ có khái niệm “đầu thai” mới có thể giải thích được. Hơn nữa, đây là một cái nhìn rất gượng ép đến độ ngây ngô của một bài tường thuật mệnh danh “khoa học” như theo tựa đề của nó. Cái gọi là “lý giải” trong bài nầy chỉ là tập hợp một số dữ kiện (hay đúng ra là “chuyện nghe kể lại”) có vẻ lạ lỳ. Tác giả không đưa ra một chứng cớ hay phân tích gì cả. Đáng tiếc thay trong đề tài “đầu thai”, cũng như hầu hết các đề tài huyền bí khác, chúng ta luôn luôn có thể tìm thấy những bài tường thuật thô sơ đội lốt khoa học một cách bôi bác như vậy.
Tóm lại, những dạng “bằng chứng” như trên làm giảm mất hết giá trị của các bài tường trình và các cuộc khảo nghiệm liên quan đến chúng. Chúng cũng làm tôi có khuynh hướng thiếu tin tưởng ở sự chính xác của những câu chuyện về “đầu thai” khác mà tôi chưa có dịp đọc qua.
Bây giờ tôi muốn thử nhìn từ một góc cạnh khác vào vài cơ cấu khả dĩ cho việc tái sinh có thể xảy ra. Tôi muốn nói sơ qua khái niệm “linh hồn”. Đó là vì phải có linh hồn trước hết thì mới có đầu thai.
Để giải thích về khái niệm linh hồn, người ta thường dùng một số giả thuyết dựa theo Định Luật Thứ Nhất của nhiệt động học (còn thường được gọi là “nguyên lý bảo toàn năng lượng”). Các giả thuyết nầy nói chung cho rằng mỗi người được cấu tạo bởi 2 phần: phần vật chất và phần phi vật chất. Phần vật chất là thể xác và phần phi vật chất thường được gọi là linh hồn. Theo nguyên lý bảo toàn năng lượng thì sau khi một người chết đi, phần năng lượng phi vật chất của họ rất có thể tuy đã rời thân xác nhưng vẫn còn tồn tại đâu đó.
Ngoài định luật bảo toàn năng lượng vừa nói ở trên, người ta cũng dùng Định Luật Thứ Hai của nhiệt động học để gián tiếp xác định việc sự sống thành tựu rồi tan biến, và do đó cho thấy sự khả dĩ hiện hữu của linh hồn. Tôi xin nói rõ hơn một chút về lý thuyết nầy.
Định Luật Thứ Hai của nhiệt động học cho rằng mọi hệ thống năng lượng trong vũ trụ, trừ khi đã ở trạng thái cân bình, đều có khuynh hướng tự biến đổi từ trạng thái có trật tự cao xuống dần thành có trật tự thấp. Một con người khi còn sống là một hệ thống (năng lượng) có trật tự cao; hệ thống nầy có thể nằm ở trạng thái trật tự cao trong suốt đời sống của họ là nhờ năng lượng dung nạp vào dưới dạng thức ăn, nước uống, v.v. Tuy vậy, trạng thái trật tự cao nầy không vĩnh viễn. Trạng thái trật tự cao tạm thời dần dần trở nên bất ổn định hơn khi các cơ quan trong thân thể dần dần hư hao đi đến khi toàn thể hệ thống sụp đổ hoàn toàn. Đó là khi sự chết xảy ra. Cái tử thi cũng là một hệ thống năng lượng từ từ phân hủy và tan rã ra: trật tự cao biến đổi thành thấp hơn và thấp hơn nữa cho đến khi toàn bộ tử thi đó không còn gì tồn tại nữa.
Theo lý thuyết về linh hồn thì linh hồn của một người sẽ tách rời khỏi thể xác họ sau khi chết. Điều nầy phù hợp với Định Luật Thứ Hai của nhiệt động học vì đó là khi một hệ thống (năng lượng) có trật tự cao hơn bị tan rã thành một hệ thống có trật tự thấp hơn.
Tuy nhiên theo tôi, các giả thuyết trên có một số vấn đề rất thiếu hoàn hảo. Thí dụ như:
1/ Nếu có một khối năng lượng gọi là “linh hồn” hiện hữu đi nữa thì cũng như bao nhiêu hệ thống năng lượng khác, rồi linh hồn cũng sẽ phải cần có năng lượng từ bên ngoài cung cấp vào nó để tồn tại (cũng tương tự như cơ thể vật chất cần có thức ăn để sống). Vấn đề cần giải thích ở đây là nguồn năng lượng cần thiết đó từ đâu mà có? Và nếu linh hồn là phi vật chất thì làm sao nó có thể hấp thụ và chứa đựng năng lượng đến từ bên ngoài được?
2/ Ngay cả nếu khối năng lượng gọi là “linh hồn” có thể thu nhận năng lượng bên ngoài để tồn tại đi nữa thì không có gì bảo đảm khối năng lượng đó vẫn còn chứa đầy đủ tri thức cũng như đặc tính cá nhân của người đã chết để còn nhận biết nó là ai hay những điều gì đang xảy ra chung quanh nó hay không. Nói cách khác, khối năng lượng đó có thể hoàn toàn vô cá tính và vô cảm tính.
3/ Và ngay cả nếu cá thể và cá tính có thể được bảo tồn đi nữa thì cũng không có gì để xác định rằng khối năng lượng nầy sẽ bền vững bao nhiêu và bao lâu. Rất có thể là sau khi rời khỏi thân xác thì theo Định Luật Thứ Hai của nhiệt động học, nó rồi sẽ bị phân tán ra và tan loảng dần trong vũ trụ; tri thức và những đặc tính cá nhân của cá thể nầy do đó cũng bị phai mờ dần và rồi biến mất. Không ai có thể xác định khoảng thời gian nầy là bao lâu: ngay tức khắc sau khi chết hay 3 ngày hay 100 ngày, v.v. sau đó?
4/ Hơn nữa, ngay cả nếu như linh hồn của một người còn tồn tại lâu đủ sau khi chết đi nữa thì cũng không có gì cho biết rằng nó có thể có khả năng hay cơ hội để được tái sinh dưới một hình dạng khác hay chuyển biến sang thành một cá thể khác. Đó là vì mọi thay đổi trên mọi hệ thống trong vũ trụ đều cần năng lượng. Khi linh hồn “mới” muốn kết hợp vào một thân xác “mới”, đó là trường hợp một hệ thống có trật tự thấp đang biến đổi thành một hệ thống có trật tự cao; nó cũng cần năng lượng bổ xung vào để làm việc đó. Cũng như ở trên, vấn đề cần giải thích ở đây là những năng lượng cần thiết đó từ đâu mà có? Và nếu linh hồn là phi vật chất thì làm sao nó có thể hấp thụ và sử dụng năng lượng đến từ bên ngoài được?
Theo tôi thì cần phải giải quyết tất cả những vấn đề thiếu hoàn hảo trên trước khi có thể xác định rằng việc "đầu thai" có xảy ra hay không.
Tuy vậy, thật tình mà nói thì bất kể những câu hỏi trên có câu trả lời thỏa đáng hay không, tôi vẫn có cảm tưởng cách nhìn nầy có phần đơn giản quá. Đó là vì nói chung thì hầu như bất cứ sự kiện hay hiện tượng nào trên đời cũng có thể được giải thích (một phần nào) bằng một giả thuyết hay định luật nào đó. Ở đây các lý thuyết nầy đang dùng những định luật khoa học có phạm vi rất tổng quát để cố giải thích cho những hiện tượng không kiểm chứng được.
Một vấn đề theo tôi đáng ghi nhận nhất là nếu đầu thai là một hiện tượng tự nhiên xảy ra sau khi một người chết đi thì tại sao nó quá hiếm hoi? Trong những trăm ngàn triệu tỉ người chết xưa nay, tại sao chỉ có một số rất rất nhỏ câu chuyện cho thấy hiện tượng nầy (có vẻ) xảy ra? Nếu là một hiện tượng tự nhiên thì nó sẽ xảy ra đồng nhất, rõ ràng, chắc chắn, liên tục, và có thể dự đoán trước hầu như không bao giờ sai chạy mỗi lần, mỗi nơi và đến tất cả mọi người, mọi vật. Thí dụ như trọng lực, sự thay đổi nhiệt độ qua mỗi mùa trong năm, phản ứng sinh lý của động vật trước sự thay đổi của môi trường sống, v.v và v.v. Hiện tượng “đầu thai” không hề mang những tính chất trên.
Tôi có khuynh hướng cho rằng không ít những câu chuyện về đầu thai phát nguồn từ niềm mong ước mãnh liệt của con người rằng sự sống vẫn còn tiếp diễn sau khi thân xác họ đã ngừng hoạt động. Niềm mong ước đó mãnh liệt đủ để tiềm thức họ thuyết phục họ một cách dễ dàng để nhìn thấy và đi đến những kết luận về những sự kiện không hề xảy ra.
Kế đó, có rất nhiều trường hợp tôi không khỏi nghi ngờ rằng toàn bộ những câu chuyện về đầu thai đã được tạo dựng ra vì lý do nầy hay lý do khác. Tôi không thể cho là tất cả các câu chuyện nầy đều là giả mạo. Tôi không biết có bao nhiêu trường hợp giả mạo. Tôi cũng không biết có phải tất cả mọi câu chuyện trên đều là giả mạo hay ít nhất được thêu dệt, thêm thắt ít nhiều hay không.
Tuy vậy, theo tôi không ít những vụ giả mạo trong vấn đề nầy là để vụ lợi. Rất nhiều mẩu chuyện dạng nầy xảy ra ở một vùng quê hẻo lánh hay một thôn tỉnh vô danh nào đó. Nếu một sự kiện ly kỳ loại nầy xảy ra ở những nơi như vậy thì số du khách tò mò đến thăm viếng sẽ mang lại địa phương và các người trong cuộc những lợi tức không nhỏ. Ngay cả những câu chuyện xảy ra ở các tỉnh thành lớn cũng vậy, tất cả đều dẫn đến các lợi tức thu nhập trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến những hiện tượng gọi là “huyền bí” trên.
Nói chung cho đến nay không có bằng chứng gì khách quan và rõ ràng đủ để thuyết phục tôi rằng những chuyện về đầu thai đó đã có xảy ra. Và ngay cả nếu những câu chuyện đó đã có thật sự xảy ra đi nữa thì cũng không có gì chứng minh rằng đây là một quy luật chung cho tất cả mọi người.
Vì các lý do trên, tôi xem chuyện “đầu thai” chỉ có thể là một “giả thuyết” chớ không phải là một “định luật” đáng tin cậy đủ để được áp dụng vào đời sống thực tế.
Có lẽ điều tôi than phiền nhất là việc các tông phái Phật Giáo giảng dạy về các khái niệm đầu thai và luân hồi giống như những sự thật tuyệt đối hoặc những định luật khoa học tự nhiên trong khi họ không hề có một bằng cớ khách quan nào có thể kiểm chứng được.
Chú thích:
Tài liệu dùng trong bài nầy được sưu tầm từ những trang mạng thí dụ như:
http://skepdic.com/reincarn.html
http://www.skepticreport.com/sr/?p=482
http://khoahoc.tv/ly-giai-khoa-hoc-ve-su-dau-thai-chuyen-kiep-47288
Thiên Chúa Giáo
Hồi Giáo