top of page

 

 

Chương 9:

Sự Không Toàn Vẹn của Tài Liệu Lịch Sử Địa Chất

 

Một trong những chỉ trích thường nghe nhất về thuyết Tiến Hóa là “tại sao người ta không tìm thấy những khoen nối trung gian giữa những sinh vật hiện hữu ngày nay và các tổ tiên của chúng trong các tài liệu lịch sử địa chất?”

 

Darwin giải thích rằng có rất nhiều thiếu sót trong các tài liệu lịch sử địa chất mà con người thu thập được cho đến nay. Sự thay đổi thường xuyên trong các địa tầng đã hũy diệt đại đa số các vật hóa thạch trong thiên nhiên nên con người cho đến nay không thể tìm ra đủ dữ kiện để xây dựng lại lịch sử tiến hóa của các chủng loại.

 

Darwin dùng kiến thức của Charles Lyell trong quyển Nguyên Lý Địa Chất Học để cho thấy rằng cấu trúc của bề mặt địa cầu luôn thay đổi không ngừng. Sự biến dạng của đất đai có thể thấy dễ dàng qua sự hao mòn, sụp lở dọc theo bờ biển cũng như sự vun bồi phù sa trong sông và ở vịnh biển. Các hiện tượng nầy làm thay đổi những cấu trúc địa tầng và hình dáng của đất đai cũng như sông ngòi, hồ, biển. Tốc độ thay đổi trên tuy nhiên cực kỳ chậm. Darwin ước lượng sự hao mòn của khu rừng Weald trong nước Anh mà chúng ta thấy ngày nay đã kéo dài hơn 300 triệu năm. Sự biến đổi rất chậm nầy cho chúng ta đôi chút khái niệm về số tuổi cực kỳ to lớn của quả địa cầu. Sự sống trên hành tinh nầy cũng vậy, đã xuất phát và hiện diện qua một khoảng thời gian dài hơn hầu hết chúng ta có thể tưởng tượng được. Điều nầy cũng cho thấy rằng tổng số tất cả những sinh vật đã từng sống rồi chết, những chủng loại đã từng hiện hữu và rồi diệt chủng có thể nói là vô tận so với những vật hóa thạch mà con người đã thu lượm được.

 

Có nghĩa là con số tất cả các sinh vật đã từng hiện hữu lúc nào cũng cực kỳ lớn so với con số nhỏ bé của các sinh vật mà con người biết được. Thế thì những vật hóa thạch của tất cả các sinh vật khác ở đâu rồi? Câu trả lời là hầu hết sinh vật sau khi chết đều bị tan rữa và tiêu hũy đi. Đại đa số trường hợp không có môi trường thích hợp (thí dụ như phù sa, than bùn, tro núi lửa, nhựa cây, v.v.) để bao bọc, bảo vệ đúng lúc thân xác của các sinh vật trước khi chúng bị hư hại. Mà ngay khi điều kiện hiếm hoi nầy xảy ra đi nữa thì bao nhiêu sự biến đổi không ngừng trong các tầng địa chất, trên mặt đất, dưới đáy sông biển, v.v. qua hàng triệu năm cũng hủy hoại những gì đã được bao bọc, bảo vệ. Sóng, gió bào mòn những gì, nếu có, được gìn giữ trong trầm tích thạch. Mỗi khi mực nước biển thay đổi (rất nhiều lần trong lịch sử trái đất) thì những vật hóa thạch nằm dưới nước sẽ bị đẩy lên trên bờ, hay ngược lại, và hầu như đều bị hư hại, hủy diệt.

 

Vì lý do trên tài liệu lịch sử địa chất luôn luôn có nhiều lỗ hổng. Những vật hóa thạch thu lượm bởi con người chỉ là những mảnh vụn nằm rải rác trên một chuỗi dài tiến hóa, sinh tồn và diệt vong của các chủng loại. Hơn nữa, các vật hóa thạch thường không đầy đủ nên rất khó phân biệt rõ rệt giữa tiểu loại và chủng loại của những sinh vật tương cận vì vô số những tiểu loại và chủng loại trung gian đều không có mặt để so sánh. Darwin do đó lý luận rằng vì tài liệu lịch sử địa chất và vật hóa thạch không đầy đủ và gián đoạn nên không thể nào dựa vào đó để giải thích thỏa đáng sự hiện hữu cũng diễn tiến hay thời điểm diệt chủng của một chủng loại.

Một nghi vấn khác cũng thường nghe thấy về thuyết Tiến Hóa là nếu sự tuyển lựa bởi thiên nhiên tạo thành những biến đổi trong chủng loại xảy ra rất chậm thì tại sao có khi các nhà cổ vật học tìm thấy sự xuất hiện đột ngột của toàn thể một nhóm sinh vật trong các tầng địa chất mà không gặp những nhóm trung gian nào cả? Darwin cũng dùng sự gián đoạn và xáo trộn trong lịch sử vật hóa thạch để giải thích vấn đề nầy. Ông cho rằng vì sự dời đổi liên tục trong các tầng địa chất nên không thể nào dựa vào vị trí hay thứ tự của vật hóa thạch để hoàn toàn khẳng định thời điểm lập thành của một chủng loại trong lịch sử. Ngay cả khi tìm thấy nhiều chủng loại trong cùng một gia đình nằm trong cùng một tầng địa chất cũng không thể kết luận rằng chúng đã được tiến hóa và tạo thành chung thời điểm với nhau. Và cũng vì lý do nầy, các nhà cổ vật học không nên khẳng định rằng những chủng loại trung gian không hiện hữu mặc dù họ không tìm thấy vật hóa thạch của chúng.

 

Darwin lý luận rằng khoa học vẫn còn hiểu biết quá ít ỏi về lịch sử của địa cầu và về sự sống để có thể dựa vào các dữ liệu không hoàn hảo trong địa chất để phủ nhận lý thuyết Tiến Hóa của ông.

 

 

Luận Giảng

 

Darwin một lần nữa dùng sự thiếu thốn không hoàn hảo trong tài liệu lịch sử địa chất học về vật hóa thạch để biện luận cho lý thuyết của ông. Ông hoàn toàn đúng ở chỗ kiến thức của con người về sinh vật lúc nào cũng cực kỳ nhỏ bé so với tổng số mọi chủng loại đã từng tiến hóa, tạo thành, sinh sống và diệt chủng xưa nay trên địa cầu.

 

Tuy nhiên, lý luận của Darwin về sự thiếu ổn định trong lịch sử địa chất chỉ đúng một phần mà thôi. Khoa học ngày nay đã hiểu biết nhiều hơn về cơ cấu thay đổi trong địa tầng của mặt đất. Nhiều khám phá và hiểu biết đã làm sáng tỏ hơn những bất ổn định mà Darwin nói đến trong tác phẩm của ông. Những sự thiếu đồng nhất và thiếu thốn trong tài liệu lịch sử địa chất đã dần dần được bổ túc thêm. Thí dụ như kiến thức về tế bào phân tử (như lý thuyết về di truyền và dị biến của Gregor Mendel) đã giải thích rằng sự xuất hiện của các biến thể dẫn ðến việc tạo thành các chủng loại khác nhau là một quá trình xảy ra rất đột ngột chớ không phải dần dần qua các chủng loại trung gian như Darwin lý luận trong lý thuyết của ông. Tuy vậy, thuyết di truyền và dị biến cũng công nhận rằng sự tuyển chọn bởi thiên nhiên có thật sự xảy ra qua sự xuất hiện của các biến thể trong chủng loại, tuy nhiên sự việc nầy xảy ra rất nhanh chóng chớ không phải rất chậm như Darwin nghĩ. Lý thuyết nầy xác nhận nếu một biến thể xảy ra có lợi cho một số cá thể trong việc sống còn thì các cá thể nầy sẽ có dịp sinh sôi nẩy nở và truyền bá biến thể có lợi nầy cho con cháu của chúng và từ đó tạo thành một chủng loại mới. Ngoại trừ vận tốc xảy ra của quá trình nầy, đây chính là điều mà Darwin đã đề xướng.

bottom of page