top of page

 ẢO VỌNG và GÔNG CÙM CÙM

Nạn Ấu Dâm trong Công Giáo - 1

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tòa Thánh La Mã được xem là trụ sở quản trị tối cao về tâm linh và hành chính của tất cả tổ chức và tín đồ Công Giáo trên toàn thế giới. Tòa Thánh giữ quyết định tối hậu về những giáo luật, tín điều, lẫn các tiêu chuẩn đạo đức của giáo dân. Đức Giáo Hoàng, người đứng đầu Tòa Thánh, được xem là đại diện cho Thiên Chúa, người có khả năng giao tiếp với Thiên Chúa và có quyền phán quyết về mọi vấn đề tâm linh trong Công Giáo. Tòa Thánh có thể ban phép lành cho một người cũng như có quyền trừng phạt người đó bằng cách từ chối không thay mặt Chúa xóa bỏ tội lỗi của họ.

 

Thế lực tâm linh của Tòa Thánh do đó bao trùm đủ mọi tầng lớp trong tín đồ. Ảnh hưởng chính trị của Tòa Thánh lan tràn hầu hết mọi quốc gia Thiên Chúa Giáo. Tín đồ tôn sùng Đức Giáo Hoàng như một vị thánh sống. Họ xem luật lệ đưa ra bởi Tòa Thánh như những quy lệnh thiêng liêng. Đối với họ, Tòa Thánh là biểu tượng của quyền lực Thiên Chúa và của quang minh, công chính.

 

Cái nhìn của tôi không hẳn như vậy.

 

Theo tôi, Tòa Thánh lẫn các Giáo Hoàng, chỉ là một nhóm người vì lý do nầy hay lý do khác đã đạt được địa vị, chức sắc trong tổ chức tôn giáo của họ. Họ cũng chỉ là những người phàm như bạn, như tôi. Họ không có khả năng tâm linh siêu đẳng gì hơn ai khác. Họ cũng có những phản ứng tâm lý, nhu cầu tình cảm, đòi hỏi sinh lý và họ cũng có thể vi phạm những lỗi lầm trong đời sống giống như chúng ta.

 

Nói về “lỗi lầm”, ở đây tôi muốn nói về cách thức Tòa Thánh đối ứng với nạn ấu dâm bởi các tu sĩ Công Giáo lan tràn từ bao nhiêu thế hệ nay. Tệ nạn nầy đã và vẫn được cố bao che, dấu diếm bởi những giám mục, hồng y cao cấp nhất trong Giáo Hội. Chỉ gần đây thì tệ nạn nầy vì bị phanh phui ra tràn loạt nên mới được Tòa Thánh dần dà nhìn nhận một cách e dè bất đắc dĩ.

 

Trong bài tiểu luận nầy tôi sẽ nhắc đến tên một số nhân vật liên quan trong vài vụ án nổi tiếng. Điều tôi muốn chú trọng không phải là về hành động ghê tởm của các linh mục phạm tội ấu dâm mà là về hiện tượng Giáo Hội Công Giáo cố tình che dấu các tội ác đó một cách nhất quán và có hệ thống.

 

Cho đến nay, các cuộc điều tra chỉ có thể kết luận rằng tệ nạn ấu dâm lan tràn khắp nơi, ở nhiều quốc gia và nhiều giáo phận khác nhau. Không ai biết rõ con số chính xác bao nhiêu tu sĩ đã phạm tội (mà chưa bị phát giác), cũng như bao nhiêu nạn nhân (vì họ không bao giờ trình báo). Không có gì cho thấy là tệ nạn nầy đã không từng hiện hữu từ bao nhiêu thế kỷ trước đây trong Thiên Chúa Giáo. Tấm ảnh minh họa ở đầu tiểu luận nầy là bức tượng trong Plaza de San Francisco ở Havana mô tả giáo sĩ Tây Ban Nha Junipero Serra (sống ở thế kỷ 18) đang đứng ôm một đứa bé trai thổ dân lõa thể. Với kiến thức ngày nay về nạn ấu dâm lan tràn trong cộng đồng tu sĩ Công Giáo, bức tượng nầy làm một số du khách rợn người với câu hỏi có phải chăng tác giả của nó muốn ngầm biểu dương một sự kiện gì rất đen tối hơn so với hình ảnh ngây thơ tự nhiên người ta đã từng nghĩ về nó trước đây?

 

Một cuộc điều tra năm 1990 ở Chicago cho rằng 40 trong tổng số 2.200 tu sĩ Công Giáo (nghĩa là 1,8%) được phỏng vấn có thể đã từng có những hành vi tình dục xúc phạm đến trẻ con trong khoảng thời gian 40 năm trước đó. Một cuộc điều tra khác cho thấy khoảng 2% linh mục trong giáo phận ở Boston có thể đã hành dâm với trẻ con trong khoảng thời gian 50 năm. Một tài liệu khác cho thấy con số nầy là 1,6% trong giáo phận Philadelphia từ năm 1950 đến nay. Đại học Luật Hình sự John Jay ở New York đã phát hành một bản tường trình cho rằng hàng ngàn linh mục Công Giáo đã can dự vào nạn ấu dâm trong vòng 50 năm nay.

 

Cũng cần nói ngay là vì môi trường điều tra giới hạn nên các bản tường trình vừa kể thường chỉ có thể đưa ra những trường hợp có “giá trị chứng cớ thấp” (“low threshold of proof”). Trong một vụ án hình sự, thí dụ như cưỡng hiếp hay ấu dâm, thì công tố viện cần có những bằng chứng “hoàn toàn bất khả nghi” (“beyond reasonable doubt”). Vì thế tuy hành vi của các tu sĩ trên đã bị tường trình nhưng ngay cả nếu họ có bị đưa ra truy tố thì không có gì chắc chắn tất cả họ đều sẽ bị lãnh án.

 

Tuy vậy, trong số các vụ trình báo đã được dẫn đến truy tố thì phần lớn các cuộc truy tố nầy đều thành công. Một số giám mục, tổng giám mục và hồng y cũng đã bắt buộc phải từ chức vì tội cố tình dấu giếm các vụ ấu dâm của các linh mục trong giáo phận họ. Hai vụ án nổi bật nhất (có lẽ vì chúng đã được tường thuật trên báo chí nhiều nhất) liên quan đến Hồng Y Bernard Law, người đã từng là Tổng Giám Mục của Boston ở Mỹ, và Giám Mục Brendan Comiskey của Ferns ở Ái Nhĩ Lan. Gần đây hơn vào tháng Năm 2015, Tổng Giám Mục John Nienstedt và một trong các phụ tá thân cận nhất của ông là Phó Tổng Giám Mục Lee Piche tại giáo phận Minneapolis và Saint Paul của Minnesota ở Mỹ đã “được cho phép từ chức” bởi Tòa Thánh khi đứng trước nhiều bằng chứng không chối cãi được cho thấy họ đã chủ tâm bao che một linh mục sau nầy bị kết án tù vì vi phạm tình dục với hai đứa bé trai.

 

Ngay cả khi tòa án pháp luật không có đủ chứng cớ hoàn toàn bất khả nghi để kết án, trong nhiều trường hợp, thí dụ như vụ án liên quan đến Hồng Y Desmond Connell của giáo phận Dublin ở Ái Nhĩ Lan, thì uy tín và thanh danh của Giáo Hội cũng bị tổn hại nặng nề vì nhiều hành vi mờ ám của họ.

 

Sau mỗi vụ án dạng nầy bị phanh phui ra ánh sáng thì con số giáo dân tham dự thánh lễ mỗi tuần ở trong các quốc gia nầy giảm xuống rõ rệt. Trong 10 năm sau các vụ án ở Ái Nhĩ Lan, con số giáo dân đến dự thánh lễ hàng tuần giảm từ 63% xuống còn 48%. Theo sau đó là ngân khoản thu nhập của Giáo Hội từ giáo dân cúng lễ mỗi tuần trong các thời kỳ nầy cũng thấp kém hẳn. Các chuyên gia kinh tế của Tòa Thánh đã từng tỏ ý lo ngại rằng hậu quả của những vụ án ấu dâm, kể cả tiền bồi thường, có thể đưa Tòa Thánh đến tình trạng phá sản.

 

Mỗi lần sau một vụ án ấu dâm xảy ra, một số cơ sở Công Giáo cũng đưa ra thêm vài luật lệ mới để cố chấn chỉnh tổ chức của họ lại. Tuy nhiên nhiều nhà phê bình cho rằng các luật lệ mới nầy vẫn chưa đủ vào đâu trong việc thực sự ngăn ngừa tình trạng ấu dâm xảy ra nữa trong tương lai.

 

Tất cả các vụ truy tố tu sĩ Công Giáo về tội ấu dâm thường liên quan đến 2 vấn đề chính:

 

1. Thứ nhất, hành vi tình dục của tu sĩ với trẻ con hoặc xảy ra trong các cơ sở tín ngưỡng (thí dụ, ở nhà thờ) hoặc xảy ra tại các môi trường bên ngoài (thí dụ, ở tư gia giáo dân).

 

2. Thứ hai, theo tôi nghiêm trọng hơn, là cách hành sử của Giáo Hội đối với các vụ ấu dâm liên quan đến tu sĩ Công Giáo; nói rõ hơn là lập trường của Giáo Hội cố tình không tường trình các sự việc nầy đến chính quyền, trấn áp hoặc thuyết phục gia đình nạn nhân lẫn nhân chứng để họ không phổ biến sự việc ra công chúng hay trình báo với cảnh sát.

 

Một điều cần thấy là đa số linh mục qua công việc hàng ngày trong giáo phận cho phép họ có nhiều cơ hội gặp gỡ và sinh hoạt gần gũi với trẻ em trai gái đủ hạng tuổi. Hơn nữa, nhờ vào địa vị của họ, các tu sĩ nầy được sự tín nhiệm hầu như vô giới hạn từ gia đình của những trẻ em nầy. Sự kiện trên dẫn đến việc những tu sĩ có khuynh hướng ấu dâm thường có sẵn một nguồn “tài nguyên” to lớn và dễ dàng để sử dụng so với những kẻ tội phạm ấu dâm khác. Các tu sĩ nầy sử dụng nhiều phương cách khác nhau để đạt được mục đích đen tối của họ. Tài liệu từ các cuộc điều tra cho thấy trẻ con nạn nhân thường bị dụ dỗ, gạt gẫm hay bị hăm dọa bằng những lời tiêu biểu sau đây: “Hãy giữ kín việc nầy vì đây là một chuyện bí mật chỉ có hai người chúng ta và Thiên Chúa biết được mà thôi”, hoặc là “Nếu cho Cha làm cái nầy thì Cha sẽ làm phép đưa ông Nội của con, người vừa mới qua đời, lên thiên đàng”, hoặc là “Nếu cãi lời Cha thì mang tội có thể bị đày xuống Địa Ngục”.

 

Nhiều người cho rằng việc ngăn cấm tu sĩ trong vấn đề tình dục đã dẫn đến tình trạng ấu dâm lan tràn ngày nay. Tuy vậy cho đến nay không có chứng cớ rõ rệt nào cho thấy giả thuyết trên có giá trị thực tế. Trong khi tu sĩ Công Giáo không được có hoạt động tình dục, một số giáo phái Thiên Chúa Giáo khác cho phép tu sĩ của họ được có vợ. Thống kê cho thấy tỉ lệ liên quan đến nạn ấu dâm trong số các tu sĩ được phép có vợ nầy cũng tương tự như tỉ lệ liên quan đến ấu dâm của các tu sĩ Công Giáo (1,5% đến 2% như vừa trình bày ở trên). Điều nầy cho thấy việc ngăn cấm hoạt động tình dục không phải là nguyên do chính sinh ra nạn ấu dâm.

 

Cũng có lý thuyết cho rằng những tu sĩ có hành vi ấu dâm là những người có khuynh hướng đồng tính luyến ái. Bởi vậy một trong các tiêu chuẩn tuyển chọn học viên để trở thành tu sĩ Công Giáo là lọc trừ trước những ai được xem là đồng tính luyến ái. Trong chương trình bày trừ nạn ấu dâm trong cộng đồng tu sĩ, Giáo Hội cũng chú ý đặc biệt đến những tu sĩ bị cho là đồng tính luyến ái. Tuy vậy nhiều trường hợp cho thấy nạn nhân của các tu sĩ ấu dâm bao gồm cả trai lẫn gái. Thí dụ như Brendan Smyth (từng là cha xứ của nhiều giáo phận ở Belfast, Dublin và ở Mỹ) tự thú đã xâm phạm tình dục hàng trăm trẻ em nam lẫn nữ. Điều nầy cho thấy khuynh hướng ấu dâm bắt nguồn từ sự kích thích bởi trẻ con thay vì chỉ bởi người đồng giới tính.

 

Có người cũng cho rằng một số kẻ có khuynh hướng ấu dâm đã cố ý gia nhập hàng ngũ tu sĩ Thiên Chúa Giáo vì đây là một môi trường lý tưởng để hành động mà không thường gặp chống đối hoặc không dễ bị vạch mặt hoặc bị truy tố. Tuy nhiên cho đến nay không có bằng chứng trung lập nào thỏa đáng đủ để ủng hộ giả thuyết nầy.

 

Chúng ta biết tệ nạn ấu dâm không chỉ hiện hữu trong cộng đồng tu sĩ Công Giáo. Hiện tượng ấu dâm có thể thấy trong nhiều chi nhánh Thiên Chúa Giáo khác, trong những tôn giáo khác cũng như trong các đoàn thể hướng đạo, học đường, trụ sở huấn luyện thể thao, v.v. Tuy nhiên, tỉ lệ xảy ra trong cộng đồng tu sĩ Công Giáo có vẻ rất lớn. Và điểm đáng nói nhất là mức độ nhất quán và tích cực của tầng lớp lãnh đạo trong Giáo Hội để che đậy và bảo vệ những kẻ phạm tội. Vấn đề nầy không thấy xảy ra trong bất kỳ tổ chức, đoàn thể nào khác. Tại sao có sự khác nhau nầy? Câu trả lời rất giản dị: đó là vì Giáo Hội Công Giáo có phương tiện và quyền lực để làm được chuyện đó.

 

Giáo Hội là một tổ chức “kín” với cấu trúc, luật lệ, đẳng cấp và sự vận hành của quyền lực không khác mấy như trong các thâm cung hay triều đình Trung Hoa thời phong kiến. Mọi sự việc đều được giữ bí mật trong nội bộ. Có những nhân vật trong Giáo Hội mang quyền lực hầu như tuyệt đối, cộng vào đó là vị thế gần như là “thiêng liêng” được e dè kính nễ bởi thế giới bên ngoài. Đây là cửa ngõ dẫn đến tệ nạn lạm dụng quyền thế.

 

Sự đồng nhất trong các phương cách bao che để đối ứng với những vụ ấu dâm ở mọi nơi, từ Belfast cho đến Ba Tây, từ Úc Đại Lợi cho đến Áo, cho thấy nguồn gốc của vấn đề nầy xuất phát từ chính bên trong Giáo Hội. Phương cách được Giáo Hội sử dụng ở mọi nơi đều giống y hệt nhau. Đây là một hệ thống đã được thiết kế với những mục tiêu rõ rệt ngay từ đầu: giữ bí mật hoàn toàn, tránh tai tiếng thất lợi lan tràn ra dư luận, che chở thanh danh của Giáo Hội, bảo vệ tài sản của Giáo Hội.

 

Cũng có thể nói rằng tất cả phương cách của Giáo Hội dùng để đối ứng với nạn ấu dâm trong hàng ngũ tu sĩ của họ đều có một dụng ý chung: đó là với bất cứ giá nào cũng phải tránh không để các tu sĩ nầy bị liên quan đến pháp luật.

 

(Cũng cần phải nói ở đây là không phải tất cả mọi tu sĩ cao cấp trong hàng ngũ Giáo Hội đều đồng lòng che dấu tệ nạn nầy. Tài liệu cho thấy cũng có vài người muốn làm cái gì đó để thay đổi tình trạng nầy, kể cả phanh phui sự thật ra công chúng. Tuy vậy, do áp lực nội bộ và luật lệ nghiêm khắc của Tòa Thánh, tiếng nói của họ không bao giờ được phép thoát ra bên ngoài.)

 

Khi một linh mục bị giáo dân than phiền về hành vi ấu dâm của họ, trước hết giới cầm quyền trong Giáo Hội sẽ tìm cách để khỏa lấp và dập tắt lời than phiền của giáo dân đó. Họ làm việc nầy bằng nhiều cách: hứa hẹn sẽ giải quyết vấn đề, đòi hỏi sự thông cảm về “tình cảnh khó xử” của Giáo Hội, kêu gọi sự tha thứ của gia đình nạn nhân, bồi thường cho phụ huynh để họ không trình báo chính quyền, v.v. Và điều quan trọng nhất là Giáo Hội luôn luôn yêu cầu gia đình nạn nhân tuyên thệ trước mặt Thiên Chúa rằng họ sẽ giữ kín không kể lại sự việc nầy cho bất kỳ ai khác biết.

 

Như đã nói, Giáo Hội Công Giáo hiểu rõ là họ sở hữu một thế lực tâm linh rất đáng kể đối với tín đồ. Đó là vì quan niệm của giáo dân cho Giáo Hội là những cá nhân cao cả, tốt lành hơn mọi người khác, và đặc biệt có thể thay mặt Ơn Trên xóa rửa tội lỗi cho họ. Do đó khi thảo luận và thương lượng, Giáo Hội có thể uốn nắn cách suy nghĩ và phản ứng của gia đình nạn nhân theo đường hướng cần thiết. Có khi giáo dân đến tố giác một trường hợp ấu dâm lại được tu sĩ đại diện Giáo Hội làm phép rửa tội cho họ chẳng khác gì chính linh hồn họ bị nhơ nhuốc. Các bản tường trình sau nầy còn cho thấy trong nhiều trường hợp, chính gia đình nạn nhân đã mang mặc cảm tội lỗi vì đã than phiền với Giáo Hội về cha xứ địa phương có hành vi tình dục với con em họ. Những phụ huynh nầy cảm thấy có trách nhiệm vì sự than phiền của họ đưa đến tai tiếng xấu cho tôn giáo của họ, gây ra sự bất an trong giáo phận họ, và luôn cả làm hư hại thanh danh của chính linh mục đã xâm phạm tình dục con em họ!

 

Hiện tượng “nạn nhân cảm thấy tội lỗi” vừa kể trên thật ra khá bất thường và hầu như chỉ thấy xảy ra với Giáo Hội Công Giáo. Bất thường, và khó hiểu, là tại sao một tổ chức nhân danh đạo đức như thế lại có thể đặt trọng quyền lợi của mình lên trên quyền lợi của trẻ con, và tại sao họ có thể liên tục làm điều đó thành công một cách lộ liễu như vậy từ vụ nầy đến vụ khác, từ thế hệ nầy qua thế hệ khác.

 

Việc làm kế tiếp của Giáo Hội khi đứng trước một vụ ấu dâm là thuyên chuyển tu sĩ phạm tội đến một giáo phận mới. Đây là phương cách phổ biến nhất để tách rời phạm nhân ra khỏi phạm trường và đồng thời có thể gây ấn tượng với nạn nhân là “mọi việc đã được giải quyết”.

 

Tuy nhiên, Giáo Hội hầu như không bao giờ cho ban quản trị (thí dụ như giám mục hay tổng giám mục) của giáo phận mới nầy biết gì về lịch sử cũng như khuynh hướng ấu dâm của tu sĩ vừa đến bổ nhiệm. Trong một số trường hợp, ngay cả khi tổng giám mục địa phương biết rõ về tu sĩ có thành tích vi phạm tội ấu dâm nhiều lần, tu sĩ nầy vẫn được cho phép tiếp tục hoạt động trong những môi trường chung đụng với trẻ em. Vì vậy, một linh mục vừa bị tố giác xâm phạm tình dục trẻ em ở một giáo xứ vẫn sẽ được giao cho trách nhiệm làm việc gần gũi với trẻ em trong giáo xứ khác. Và không lâu sau thì ngựa quen đường cũ và các trẻ em trong giáo xứ mới nầy cũng sẽ mang cùng số phận của các trẻ em trong giáo xứ trước.

 

Sự kiện nầy tái diễn nhiều lần trong nhiều giáo xứ vì Giáo Hội tiếp tục “giải quyết vấn đề” bằng cách thuyên chuyển vị linh mục từ nơi nầy đến nơi khác. Trong vài trường hợp đặc biệt khi không còn giáo xứ nào để thuyên chuyển nữa thì các linh mục tái phạm tội quá nhiều lần sẽ được gởi sang hẳn qua một quốc gia khác (thí dụ như trường hợp cha xứ Brendan Smyth sau khi không còn chỗ trú ở Ái Nhĩ Lan đã được gởi sang Mỹ để tiếp tục làm cha xứ và tiếp tục xâm phạm tình dục trẻ em).

 

Chủ trương nổi bật kế tiếp của Giáo Hội là không trình báo nhà cầm quyền khi biết rằng tu sĩ dưới quyền họ phạm tội (hay bị tố giác về tội) ấu dâm. Luật pháp nhiều quốc gia đòi hỏi một người phải trình báo nhà cầm quyền khi nghe biết về một trường hợp vi phạm tình dục liên quan đến trẻ em, ngay cả khi không có bằng chứng rõ rệt. Khi nói về luật pháp, một khuynh hướng phổ biến trong Công Giáo cho rằng tu sĩ là một thành phần đặc biệt trong xã hội. Họ cho rằng vì Công Giáo là “tôn giáo chính thống” (“true church”) của Giê-su nên luật lệ của họ, được đặt ra bởi những người đã được Thiên Chúa giao phái phận sự, có giá trị hơn luật pháp xã hội. Do đó Giáo Hội chủ trương dùng giáo luật (Canon law) để xét xử tu sĩ của họ, thay vì dùng luật hình sự (criminal law) mà luật pháp áp dụng cho tất cả mọi người khác. Điều nầy cho thấy Giáo Hội tự cho rằng họ đứng bên ngoài, và bên trên, luật pháp quốc gia. Vì việc nầy, Giáo Hội đã bị xem là cố ý “ngăn cản quá trình thể hiện công lý” (“perverting the course of justice”), và chính ngay việc nầy cũng là một tội hình sự.

 

Hơn thế nữa, giáo luật Công Giáo về việc xưng tội và rửa tội không cho phép người nghe xưng tội tiết lộ chi tiết cho ai khác biết. Giáo luật nầy đã được dùng nhiều lần như một lý do (hay một cái cớ để tạo lối thoát?) giải thích tại sao các tu sĩ quản trị trong Giáo Hội không thể trình báo các tu sĩ vi phạm ấu dâm với nhà cầm quyền sau khi các tu sĩ nầy đã xưng tội với họ.  

 

(còn tiếp)

 

 

 

    Da Màu: http://damau.org/archives/39276

 

Thiên Chúa Giáo

Hồi Giáo

bottom of page