top of page

NGUỒN GỐC của CHỦNG LOẠI

(Charles Darwin)

 

LƯỢC DỊCH và LUẬN GIẢNG

Mở Đầu

 

Darwin mở đầu bằng lời giới thiệu về sự thành hình các ý tưởng dẫn đến thuyết Tiến Hóa của ông. Trong chuyến thám hiểm dài 5 năm trên chiếc tàu HMS Beagle (1831-1836) tìm hiểu về thế giới thiên nhiên, ông đã quan sát và thu thập dữ kiện về nhiều loài thú ở lục địa Nam Mỹ và các quần đảo láng giềng. Những gì Darwin quan sát trên chuyến đi nầy làm ông suy nghĩ đến sự kỳ bí về nguồn gốc của các chủng loại. Sau khi trở về Anh, ông bỏ ra hơn 20 năm nữa nghiên cứu về đề tài nầy trước khi quyển Nguồn Gốc của Chủng Loại được xuất bản năm 1859.

 

Thật ra thì đến 1859, Darwin vẫn chưa hoàn tất cuộc nghiên cứu của ông như ý định. Tuy vậy Darwin đã phải hối hả xuất bản quyển Nguồn Gốc Chủng Loại vì hai lý do: thứ nhất, sức khỏe ông đã suy sụp nhiều; và thứ hai, đương thời có một học giả về thiên nhiên khác là Alfred Russel Wallace cũng đang khảo cứu và sắp hoàn tất một lý thuyết rất tương tự với Darwin. Darwin nhận thấy điều ấy nên vội vàng ấn hành công trình khảo cứu của mình để được công nhận là người tiên phong đưa ra lý thuyết nầy. Quyển Nguồn Gốc Chủng Loại do đó được Darwin ấn hành với ý định chỉ là một yếu lược về lý thuyết Tiến Hóa; ông dự định sẽ có những ấn bản tiếp sau với đầy đủ chi tiết hơn.

 

Darwin không phải là người đầu tiên phổ biến ý niệm rằng chủng loại đã không được sáng tạo một cách riêng biệt và độc lập mà đã bắt nguồn và tiến hóa từ các chủng loại khác. Hai tác giả nổi bật trước Darwin đã đưa ra ý niệm nầy là Jean-Baptiste Lamarck và Robert Chambers. Tuy chi tiết về các lý thuyết của họ khác biệt đôi chút với lý thuyết của Darwin, và sự tiến triển của khoa học ngày nay cho thấy các lý thuyết của họ không chính xác, nhưng họ vẫn có công đã giới thiệu ý niệm “tiến hóa” đến với các khoa học gia sau nầy, kể cả Darwin.

 

Vài học giả về thiên nhiên cùng thời với Darwin cho rằng các yếu tố về môi trường sống như nhiệt độ, thức ăn, v.v. là nguyên nhân chính dẫn đến sự biến thể trong chủng loại. Darwin cho rằng phải có yếu tố chính yếu nào đó khác nữa mới có thể dẫn đến sự thích ứng hoàn hảo trong cấu trúc cũng như khả năng sinh sống của các chủng loại hiện hữu.

Darwin dựa trên những quan sát của ông về động thực vật trong thiên nhiên cũng như những chủng loại đã được thuần hóa và canh tác bởi con người để đưa đến một lý thuyết có thể giải thích vì sao có hiện tượng thích ứng hoàn hảo trên, và từ đó đưa đến nguồn gốc của những chủng loại.

 

Darwin giới thiệu một khái niệm gọi là “sự tuyển chọn bởi thiên nhiên”. Nguyên lý “tuyển chọn bởi thiên nhiên” cho rằng: 1/ có những sự biến thể xảy ra tự nhiên trong chủng loại, và 2/ chủng loại nào có các đặc điểm, hay đã biến thể để có được các đặc điểm, ích lợi trong môi trường sống của chúng sẽ được thiên nhiên “tuyển chọn” để có nhiều cơ hội sống còn hơn các chủng loại khác.

 

Darwin cũng trình bày rõ ràng về phương pháp lý luận khoa học mà ông dùng để khảo cứu vấn đề nầy. Hai nguyên lý chính được Darwin nhấn mạnh là: quan sát và thí nghiệm. Phương cách khảo cứu của Darwin dựa trên lối lý luận quy nạp; có nghĩa là dùng những thí dụ cụ thể có thật trong thực tế để dẫn giải đến những kết luận bao quát hơn. Đây là một phương pháp lý luận được sử dụng rộng rãi đem lại uy tín và vị thế cho các kiến thức và khám phá trong lãnh vực khoa học xưa nay.

 

 

Luận Giảng

 

Tuy Darwin tuyên dương phương pháp khoa học mà ông sử dụng để dẫn đến lý thuyết của ông, ông cũng đề cập gián tiếp đến sự thiếu chắc chắn hoàn toàn trong những khám phá của khoa học. Đây là một tính chất đặc thù về các khám phá và lý thuyết dựa trên phương pháp khoa học: luôn luôn có thể có những dữ kiện mới, những khám phá mới, những lý thuyết mới chính xác và hoàn hảo hơn các khám phá và lý thuyết hiện hữu. Nhờ tính chất đặc thù nầy mà kiến thức trong lãnh vực khoa học ngày càng mở rộng chớ không bế tắt bởi định kiến bảo thủ như trong một vài lãnh vực khác.

 

Darwin hiểu rằng vì bản chất của phương pháp lý thuyết khoa học kể trên, ông không thể nào cam đoan một sự chắc chắn hoàn toàn trong lý thuyết về sự tuyển lựa của thiên nhiên. Ở đây khi Darwin trình bày về sự chưa toàn hảo nầy, ông đón mời lời phê bình từ độc giả về lý thuyết của ông. Tương tự, khi ông phát biểu những nghi ngại của ông về các lý thuyết của những học giả khác, ông cũng xác định sự thiếu chắc chắn hoàn toàn vốn có sẵn trong các phương pháp và lý thuyết khoa học. Darwin cho thấy tuy phương pháp khoa học đã đem đến uy tín và vị thế cho sự khám phá về nguồn gốc của chủng loại, uy tín và vị thế nầy không thể tuyệt đối được.

 

Sự kiện Darwin đã hối hả ấn hành quyển Nguồn Gốc Chủng Loại trước khi học giả thiên nhiên cùng thời Alfred Russel Wallace ấn hành công trình khảo cứu của ông (tiểu luận “Khuynh Hướng của Loài Giống Tách Rời Vô Hạn khỏi Chủng Loại Gốc của Chúng”) cũng đã đưa đến ít nhiều dư luận. Vì Darwin đã có dịp đọc qua bản thảo của Wallace trước khi quyển Nguồn Gốc Chủng Loại ra đời, có người cũng đã kết tội Darwin ăn cắp lý thuyết của Wallace.

 

Qua quyển Nguồn Gốc Chủng Loại, Darwin cho thấy rõ sự ngưỡng mộ thiên nhiên tuyệt cùng của ông. Từ sự ngưỡng mộ đó, ông nhận ra được thiên nhiên đã “cho phép” mỗi chủng loại đạt đến đỉnh cao trong khả năng thích ứng của chúng trong môi trường sống. Nói cách khác, mỗi chủng loại đều có những đặc tính giúp chúng sống thích ứng được nhất trong môi trường của chúng. Các học giả thiên nhiên theo phái thần học cho rằng hiện tượng trên là bằng chứng có sự “thiết kế thông minh” của một đấng sáng tạo. Trong khi ấy theo Darwin thì đó thật ra là bằng chứng cho thấy sự hiện hữu của một quá trình “tuyển chọn bởi thiên nhiên”.

 

 

Chú Thích:

 

Trước khi bắt đầu Chương 1, tôi xin làm sáng tỏ số danh từ sẽ được dùng rất nhiều lần trong quyển Nguồn Gốc Chủng Loại; trước nhất là “chủng loại” hay “loài” (species), kế đó “tiểu loại” (sub-species), “giống” (race/breed) và “biến loại” (variety).

 

Trong ngôn ngữ thường ngày, các từ như “loài”, “loại”, “giống” thường được dùng lẫn lộn với nhau. Tuy nhiên, trong ngành phân loại sinh vật (taxonomy), mỗi từ trên mang một ư nghĩa riêng của chúng. Người đọc cần phải phân biệt rõ những từ đó để tránh sự bối rối hay lầm lẫn ở đây.

 

Thí dụ về các “chủng loại” (hay “loài”) khác nhau: loài voi, loài mèo, loài chó, loài lan, loài thông, loài lúa, v.v.

 

Theo cách xếp loại của khoa học tự nhiên ngày nay thì “chủng loại” (species) là một nhóm sinh vật có thể giao hợp với nhau và sinh sản được, và con cháu của chúng có thể tiếp tục sinh sản nữa. Hai sinh vật thuộc hai chủng loại khác nhau nói chung không thể giao hợp được (trong trường hợp thực vật thì không thể thụ phấn hoa thành ra quả được). Trong vài trường hợp hiếm hoi, hai chủng loại khác nhau có thể sinh ra con nhưng con của chúng không có khả năng sinh sản. Thí dụ như sư tử và cọp trong môi trường nhân tạo (ở sở thú) có thể sinh ra một giống vật lai (trong Anh ngữ gọi là “liger” = lion + tiger) mà giống vật mới nầy không thể nào tiếp tục sinh sản được (vì con đực của chúng luôn luôn tuyệt sản). Thí dụ như con lừa đực kết hợp với con ngựa cái sẽ sinh ra con la. Loài la không tự sinh sản được vì con la đực luôn luôn tuyệt sản trong khi con cái có thể đôi khi thụ thai với ngựa hay lừa bằng phương pháp nhân tạo.

 

Sinh vật trong cùng một chủng loại có thể được phân ra thành nhiều nhóm khác nhau gọi là “tiểu loại”. Những sinh vật trong một tiểu loại có những cấu trúc cơ thể khác biệt với các sinh vật trong các tiểu loại khác, tuy vậy những khác biệt nầy không đủ để xem chúng là một chủng loại khác. Thí dụ trong chủng loại voi có hai tiểu loại voi Á Châu và voi Phi Châu; trong loài cọp có các tiểu loại như cọp Bengal, cọp Siberian; trong loài lúa có các tiểu loại như lúa trắng Á Châu, lúa nếp, v.v. Các tiểu loại khác nhau thường hiện hữu và sinh sống trong các môi trường địa lý cách biệt nhau.

 

Những sinh vật cùng chủng loại nhưng khác tiểu loại thường có thể giao hợp và sinh sản được nhưng có nhiều trường hợp không thành công mấy.

 

Danh từ “giống” (race/breed) được dùng để chỉ những tiểu loại trong các sinh vật đã được thuần hóa bởi con người. Thí dụ như chủng loại mèo có nhiều tiểu loại khác nhau trong đó có tiểu loại mèo hoang Phi Châu (silvestris lybica). Loài mèo nhà chính là tiểu loại mèo hoang Phi Châu đã được thuần hóa. Hơn thế nữa, con người trong quá trình nuôi dưỡng loài mèo nhà đã sản xuất ra những giống mèo dựa theo sở thích hay ích lợi cho họ. Do đó tiểu loại mèo nhà còn có thể được chia ra làm nhiều giống mèo lông dài, lông ngắn, không lông, v.v. Các giống mèo nầy thật ra có thể được xem là tiểu-tiểu-loại của loài mèo. Trường hợp “tiểu-tiểu-loại” nầy còn có khi được các nhà sinh vật học gọi là “biến loại” (variety).

 

Một điều cần biết là mỗi chủng loại, tiểu loại, v.v. chỉ là một nhóm sinh vật được phân chia ra bởi các học giả về thiên nhiên dựa trên một số nguyên tắc của họ. Những nguyên tắc nầy không phải lúc nào cũng rõ ràng, đồng nhất hay được chấp nhận bởi tất cả các học giả. Vì thế có nhiều trường hợp mà hai nhóm sinh vật được một số học giả xem là hai chủng loại khác nhau nhưng lại được một số học giả khác xem là hai tiểu loại thuộc cùng chung một chủng loại. Vấn đề nầy sẽ được thảo luận rõ hơn trong Chương 2.

 

Ngoài các “cấp bật” trên, ngành phân loại sinh vật trong thiên nhiên còn có nhiều cấp bật cao hơn nữa mà tôi dùng thí dụ sau đây của loài cọp để minh giảng.

 

  • Loài cọp (Tigris) là một chủng loại (species)

  • Chủng loại Cọp thuộc họ (genus) Cọp Beo (Panthera) trong đó có các loài cọp, beo, sư tử, v.v.

  • Họ Cọp Beo nằm trong gia đình (family) Mèo (Felidae) trong đó có tất cả loài mèo, cọp, beo, sư tử, v.v.

  • Gia đình Mèo nằm trong dòng (order) Ăn Thịt Sống (Carnivore) gồm có tất cả loài hữu nhũ ăn thịt sống.

  • Dòng Ăn Thịt Sống nằm trong lớp (class) Hữu Nhũ (Mammalia): tất cả thú vật có nguyên sống (notochord) lúc phôi thai, và cho con bú.

  • Lớp Hữu Nhũ nằm trong một hàng (phylum) gồm tất cả thú vật có nguyên sống lúc phôi thai.

  • Trên tất cả là vương quốc (kingdom) gồm tất cả động vật.

 

Người đọc cần chú ý rằng tôi dịch và dùng những từ ở trên từ nguyên bản Anh ngữ. Những từ Việt ngữ của tôi có thể không hoàn toàn giống những từ Việt ngữ cùng nghĩa của những tác giả người Việt khác. Vì thế thỉnh thoảng tôi kèm theo những từ Anh ngữ để thêm phần rõ ràng.

Ngoài phần Mở Đầu, quyển Nguồn Gốc của Chủng Loại có 14 chương:

bottom of page